Đề tài Rèn kĩ năng nói trong giờ Tập làm văn lớp 5

Đề tài Rèn kĩ năng nói trong giờ Tập làm văn lớp 5

 Như chúng ta đã biết mục tiêu của Giaó dục Tiểu học đó là nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản, góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chũ nghĩa, bước đầu xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân, chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học trung học cơ sở ( theo Điều 23 Luật Giaó dục 2009)

 Để đạt được mục tiêu trên trong chương trình Tiểu học, môn Tiếng việt chiếm vị trí rất quan trọng. Tiếng việt tạo điều kiện và cơ sở cho học sinh học tốt các bộ môn. Đặc biệt môn Tiếng việt lớp 5 và cụ thể là môn tập làm văn nói. Thực tế dạy học hiện nay cho thấy kỷ năng nói của HS đang ngày bị xem nhẹ và hình thức kiểm tra chủ yếu hiện nay là kiểm tra viết và giáo viên chỉ tập trung vào các kỹ năng : đọc, viết, tính toán trong nhà trường là việc có thật.

doc 18 trang Người đăng Nobita95 Lượt xem 2393Lượt tải 5 Download
Bạn đang xem tài liệu "Đề tài Rèn kĩ năng nói trong giờ Tập làm văn lớp 5", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TÊN SÁNG KIẾN: RÈN KĨ NĂNG NÓI TRONG GIỜ TẬP LÀM VĂN LỚP 5. 
NGƯỜI VIẾT : BÀNH THỊ CẢNH
CHỨC VỤ : GIÁO VIÊN
ĐƠN VỊ : TRƯỜNG TIỂU HỌC XUYÊN MỘC
A : PHẦN MỞ ĐẦU
I/ LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI : 
 Như chúng ta đã biết mục tiêu của Giaó dục Tiểu học đó là nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản, góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chũ nghĩa, bước đầu xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân, chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học trung học cơ sở ( theo Điều 23 Luật Giaó dục 2009)
 Để đạt được mục tiêu trên trong chương trình Tiểu học, môn Tiếng việt chiếm vị trí rất quan trọng. Tiếng việt tạo điều kiện và cơ sở cho học sinh học tốt các bộ môn. Đặc biệt môn Tiếng việt lớp 5 và cụ thể là môn tập làm văn nói. Thực tế dạy học hiện nay cho thấy kỷ năng nói của HS đang ngày bị xem nhẹ và hình thức kiểm tra chủ yếu hiện nay là kiểm tra viết và giáo viên chỉ tập trung vào các kỹ năng : đọc, viết, tính toán trong nhà trường là việc có thật. Việc rèn luyên kỹ năng nói cho HS trong phân môn Tập làm văn lớp 5 hiện nay chưa làm nổi bật các đặc thù là rèn kỹ năng nói cho học sinh mà chủ yếu mới chỉ tập trung vào lập dàn bài để phục vụ cho giờ văn viết. Do đó, việc rèn luyện kỹ năng nói lưu loát trong cách diễn đạt cho học sinh là việc làm cần thiết của người giáo viên ở trên lớp, đây là cả một quá trình đòi hỏi giáo viên phải nỗ lực, cố gắng, tìm hiểu và quan tâm đến từng đối tượng học sinh ở trong lớp để có thể có biện pháp giúp đỡ các em có điều kiện luyện tập tùy theo cách nhìn nhận vấn đề của từng học sinh. Do đó việc cải tiến, đổi mới về phương pháp luyện nói cho học sinh tiểu học nói chung và học sinh lớp 5 nói riêng là vấn đề cần quan tâm, bởi vì khả năng diễn đạt vấn đề của học sinh hiện nay hầu hết còn rất nhiều hạn chế cần khắc phục.
 Bởi vậy làm thế nào để dạy tốt vấn đề hết sức cần thiết đối với mỗi giáo viên nhằm nâng cao chất lượng dạy và học.
 Từ thực trạng việc diễn đạt vấn đề của học sinh lớp 5, trường tiểu học Xuyên Mộc hiện nay. Là một giáo viên đang trực tiếp giảng dạy, tôi thiết nghĩ cần phải cải tiến và đổi mới về thực trạng hiện nay để nâng cao khả năng diễn đạt, khả năng 
giao tiếp và nhận biết vấn đề của học sinh.Vì vậy tôi mạnh dạn nghiên cứu sáng kiến . “Rèn kỹ năng nói trong giờ Tập làm văn .”
 1.Cơ sở lý luận
 Bước vào thế kỷ 21 giáo dục Việt Nam đã trải qua hơn 20 năm đổi mới và thu được những thành quả quan trọng về mở rộng quy mô, đa dạng hóa các hình thức giáo dục và nâng cấp cơ sở vật chất cho nhà trường. Chất lượng giáo dục có những chuyển biến rõ rệt.
 Đất nước ta ngày càng phát triển, đổi mới, việc đào tạo một lớp người mới biết sử dụng thành thạo điêu luyện ngôn ngữ diễn đạt một cách mới mẻ sáng tạo tư duy là vô cùng cần thiết. Cũng bởi Tiếng việt là ngôn ngữ, là phương tiện giao tiếp quan trong nhất của xã hội hiện nay. Do vậy Tiếng việt được đưa vào dạy học trong tất cả các cấp học với lượng kiến thức và thời gian nhiều. Môn Tiếng việt là một trong những môn học trong trường tiểu học phải được thực hiện theo nguyên tắc dạy và học. Nguyên tắc dạy học Tiếng việt cho học sinh tiểu học cần dựa trên cơ sở những quy luật và nguyên tắc để đề ra những phương pháp dạy học cũng như cách tổ chức quá trình dạy học cụ thể hơn, khoa học hơn .Khắc phục lối truyền thụ một chiều ,rèn luyện lề nết tư duy sáng tạo của người học ,từng bước áp dụng phương pháp tiên tiến, hiện đại vào quá trình dạy học. Do vậy rèn luyện kỹ năng nghe, nói, đọc, viết cho học sinh của mỗi giáo viên tiểu học cần phải được chú trọng và quan tâm.
 2.Cơ sở thực tiễn
 Trong tất cả các môn thì Tiếng việt là môt trong những môn học có vị trí đặc biệt,nó chiếm thời lượng tiết học nhiều hơn cả (8/23 tiết/tuần). Sau khi học xong chương trình Tiếng Việt tiểu học các em phải thực hiện tốt 4 kỹ năng nghe, nói , đọc , viết mà chương trình yêu cầu. Đặc biệt là kỹ năng nói thông qua việc diễn đạt các vấn đề một cách rõ ràng, mạch lạc, trọng tâm làm cho người nghe có hứng thú và tiếp cận lời nói môt cách tự nhiên và hiệu quả.
 Các yêu cầu của môn Tiếng Việt lớp 5 đối với học sinh vùng thành phố thị xã thì việc thực hiện dễ dàng. Song đối với học sinh lớp 5 trường tiểu học Xuyên Mộc cần phải thực hiện thường xuyên, nhiệt tình để nâng cao chất lượng học tập tốt hơn.
 Ở đơn vị trường Tiểu học Xuyên Mộc, tỷ lệ học sinh đạt chất lượng cao ở môn Tiếng Việt nói chung và khả năng trình bày bằng lời nói của học sinh nhìn chung còn chưa đồng đều ở các khối, lớp.
 Trước yêu cầu thực tế của đơn vị là “ Nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo” là giáo viên đang trực tiếp giảng dạy ở lớp 5A1 trường tiểu học Xuyên Mộc.
Xuất phát từ những luận điểm trên và qua thực tế giảng dạy tôi đã tìm hiểu, nghiên cứu và đổi mới phương pháp để nâng cao chất lượng, rèn luyện kỹ năng nói cho học sinh thông qua môn Tiếng Việt và phân môn Tập làm văn theo tiêu chuẩn của Bộ Giáo Dục Và Đào Tạo, đồng thời tạo ra những phương pháp đổi mới ,những biện pháp cần thiết là động lực thúc đẩy cho giáo dục của nhà trường góp phần hoàn thiện các kỹ năng để học sinh có thể tiếp cận với các kiến thức mới dễ dàng và có hiệu quả.
 II / MỤC ĐÍCH VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
 Xuất phát từ mục tiêu của giáo dục là coi giáo dục đào tạo cùng với khoa học công nghệ là nền tảng, là động lực của sự nghiệp Công nghệ hóa – hiện đại hóa Đất nước ,phát huy yếu tố con người phát triển toàn diện là yếu tố cơ bản cho sự phát triển lâu dài và bền vững trong mọi lĩnh vực. Trọng tâm là việc chú trọng đến con người được đào tạo là con người có đầy đủ năng lực ,trí tuệ, có đạo đức thích nghi được với những thay đổi, có kỹ năng hành động, biết “ Học thường xuyên ,bhọc suốt đời” và có ý tưởng “học để biết, học để làm, học để cùng sống với nhau và học để làm người ”. Để đáp ứng như cầu của xã hội là đào tạo ra những con người phát triển toàn diện thì việc dạy học ở trường Tiểu học chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng, bởi vì bậc tiểu học là bậc học nền tảng của hệ thống giáo dục Quốc dân, do đó đòi hỏi phải dạy đúng, dạy đủ các môn học theo quy định nhằm giúp các em có thêm kiến thức sâu rộng để có thể tiếp cận được với nền khoa học tiên tiến hiện nay là “ Nâng cao dân tri , đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài ”.
Các môn học ở tiểu học cần có mối quan hệ mật thiết với nhau, hỗ trợ cho nhau. 
 Môn Tiếng Việt ở Tiểu học có vị trí rất đăc biệt quan trọng, nó chiếm thời lượng nhiều hơn cả so với các môn học khác. Phương tiện chủ yếu của môn Tiếng Việt là ngôn ngữ, là công cụ không thể thiếu để giao tiếp trong cuộc sống hàng ngày và là phương tiện để học sinh có thể tiếp cận và học tốt được các môn học khác. Ngôn ngữ phát triển thì tư duy cũng phát triển. 
 Môn Tiếng Việt còn giúp cho các em cảm nhận, khám phá ra những nét đẹp tâm hồn, sự hiểu biết về thế giới xung quanh. Môn Tiếng Việt là cơ sở, là chỗ dựa cho học tốt các môn học khác.Vì muốn học môn nào cũng cần sử dụng kỹ năng nói, đọc, viết mà môn Tiếng Việt là môn bước đầu hình thành kỹ năng này. Trong Tiếng Việt thì phân môn: Tập làm văn lai là môn tổng hợp các kỹ năng và kiến thức của các phân môn: Luyện từ và câu, Chính tả, kể chuyện. Vì thế, Bậc Tiểu học cần rèn luyện cho các em có kỹ năng học tốt phân môn Tập làm văn để giúp các em nắm bắt được cái hay, cái đẹp, biết cảm thụ văn học và có tình yêu quê hương, đất nước và con người .
 Như ta đã biết dạy Tập làm văn là nhằm phát triển và hoàn thiện năng lực văn học cho học sinh trên bốn kỹ năng: Nghe, nói, đọc, viết để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi, trong đó kỹ năng nói có vai trò quan trọng trong đời sống học sinh, nó giúp các em hình thành các kỹ năng học tập khác. Vì thế mục đích cao nhất của bài Tập làm văn là rèn kỹ năng nói cho học sinh giúp các em sử dụng Tiếng Việt một cách có hiệu quả trong hoc tập và giao tiếp trong gia đình, nhà trường và xã hội, tôi cũng mong muốn sẽ có môt bài học kinh nghiệm để có thể áp dụng vào thực tiễn dạy môn tập làm văn nói cho học sinh trong trường. Đối với học sinh lớp 5, các em đã có một số vốn kỹ năng nhất định ,đã biết môi quan hệ giữa người với người trong những mối quan hê khác nhau, để có thể sáng tạo bằng ngôn từ một cái gì đó của mình và thể hiện những khía cạnh của đời sống. Ngôn ngữ nói là ngôn ngữ gợi đươc cảm xúc trực tiếp, người nói, người nghe có thể nắm bắt được những nội dung cần trao đổi và để đạt được mục đích của giao tiếp.
Qua ngôn ngữ nói ta dễ nhận thấy trí tuệ, tâm hồn của người nói bởi lời nói luôn mang phong cách riêng của mỗi người. Trong lời nói cần thể hiện tư duy, nếu tư duy tốt lời nói sẽ dễ dàng, gọn gàng, hấp dẫn được người nghe, ngược lại nếu nói ấp úng, không rõ ràng sẽ không thuyết phục được người nghe và đôi khi còn hiểu sai ý mình muốn nói. Vì thế mục đích của giao tiếp sẽ khó được thực hiện hoàn chỉnh. Để có những lời nói đẹp mỗi người cần phải rèn luyện trong một quá trình lâu dài. Những giờ Tập làm văn chính là giờ học hình thành cho học sinh những kỹ năng nói đầu tiên, ở lứa tuổi này các em đã có một sự thay đổi đáng kể đặc điểm tâm sinh lý. Các em đã tự thay đổi trong quá trình nhận thức, việc sử dụng các công cụ trực quan đã giảm bớt so với ở các lớp học trước và thay vào đó là học sinh có thể dùng lời để chứng minh một vấn đề. Vì vậy, lời nói cho phép diễn đạt dể dàng hơn rất nhiều về những vấn đề phức tạp hơn những tính chất bên trong những sự vận động lo-gic. Ở lớp 5 hoạt động yêu thích của trẻ em là sáng tạo văn học, nếu được học văn theo một chương trình đúng và có một phương pháp truyền thụ tốt thì trẻ em ở tuổi này rất thích học văn, dễ nói hết ra những điều mình suy nghĩ , đó là diều kiện thuận lợi nhất cho giáo viên trong việc rèn luyện kỹ năng nói cho từng học sinh, nhận ra những chỗ khiếm khuyết của từng học sinh để uốn nắn kịp thời . Theo quan điểm dạy học hiện nay, cần phải rèn cho học sinh kỹ năng diễn đạt mỗi vấn đề cụ thể một cách rõ ràng, mạch lạc. Vì vậy giờ Tập làm văn còn rèn cho học sinh kỹ năng nói, dạy các em biết tổng hợp kiến thức từ c ... tính tình của cô giáo ” một học sinh nêu: “Mái tóc đen nhánh ôm lấy khuôn mặt hồng hào của cô, thật dễ mến”
Một học sinh khác sửa lại: “Tả hình dáng và tính tình của cô giáo ” một học sinh nêu: “Mái tóc đen nhánh mượt mà như dòng suối ôm lấy khuôn mặt trái xoan hồng hào của cô, thật dễ mến ”
 + Với bài văn “ Tả hình dáng và tính tình của bà em” một học sinh nói: ”Bà em có đôi mắt ánh lên vẻ hiền từ và những nếp nhăn đã hằn sâu khuôn mặt phúc hậu của bà, tóc bà bạc trắng”
Đễ mở rộng thêm ý văn, cô giáo hỏi: Đứng nhìn ngắm bà gợi cho em cảm xúc gì? (Lòng xót thương vì bà đã vất vả nắng sương nên tóc bà bạt trắng, mắt mờ, lưng còng, em kính trọng bà và yêu thương bà đễ bà lúc nào cũng vui).
+ Trong bài văn tả cảnh sinh hoạt, có em nêu: “Từ các cửa lớp, học sinh ùa ra sân trường. Sân trường bỗng nên ồn ào. Những chiếc áo hoa, áo trắng, áo màu thật nhộn nhịp”
 Nội dung như thế là được. Câu văn gọn, rõ ý. Nhưng để sinh động hơn, HS có thể sửa lại: “Từ các cửa lớp, học sinh ùa ra như một đàn ong vỡ tổ. Sân trường bỗng nên ồn ào. Những chiếc áo hoa, áo trắng như những đàn bướm đủ màu sắc bay rập rờn”
* Mở rộng thêm ý văn bổ sung và rèn tư duy ngôn ngữ cho các em để bài văn sinh động, học sinh có hứng thú học tập. Học sinh đã sử dụng các biện pháp nghệ thuật thì giáo viên có thể gợi mở thêm để từ một ý mà cảm nhận qua nhiều hình ảnh khác nhau.
- Ví dụ: Với bài văn “ Tả cảnh sông nước” có em nêu: “ Ngoài khơi, đoàn thuyền đánh cá trông như những cánh bướm bay dập dờn trên mặt biển” 
 Câu văn giàu hình ảnh có dùng biện pháp nghệ thuật như thế là tốt, nhưng để học sinh tránh lặp các hình ảnh so sánh giống nhau của em này với em kia thì giáo viên gợi mở để HS có nhiều hình ảnh so sánh khác nhau như: “ Ngoài khơi, đoàn thuyền đánh cá trông như những hộp đồ chơi của trẻ em”. 
 - “ Dọc dờ biển, hàng dừa như những chú Hải quân đang ngày đêm đứng canh giữ biển đảo”. hoặc “ Dọc dờ biển, hàng dừa đang nghiêng mình che mát cho khách du lịch”. hoặc “ Dọc dờ biển, hàng dừa đang nghiêng mình soi bóng xuống mặt biển”. 
 Như vậy mỗi tiết tập làm văn miệng có khoảng 50% số học sinh được nói, nghĩa là trong tổng số 28 học sinh của lớp 5A1 có khoảng 14 học sinh được nói trong giờ tập làm văn với cùng nội dung một câu chuyện giống nhau, mặc dù số lượng học sinh được nói chưa nhiều nhưng như vậy đã là sự cố gắng của giáo viên trực tiếp giảng dạy và qua đây chất lượng nói của học sinh cũng được nâng cao một cách rõ rệt.
III. HIỆU QUẢ ÁP DỤNG:
Sau khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm trên, học sinh mạnh dạn, tự tin hơn biết sử dụng từ, các biện pháp nghệ thuật, chất lượng của học sinh thông qua các giờ tập làm văn được nâng lên rõ rệt so với khi chưa áp dụng sáng kiến. Vì vậy hiệu quả của sáng kiến được nâng lên rõ rệt, kỹ năng trình bày vấn đề bằng lời nói được nâng lên, khắc phục được tình trạng trình bày vấn đề lúng túng của học sinh.
Kết quả cụ thể như sau:
Thời điểm đánh giá
TSHS
HS tham gia khảo sát
Kết quả
Trình bày lưu loát
Trình bày chưa lưu loát
Trình bày còn lúng túng
TS
%
TS
%
TS
%
Đầu năm
28
28
3
11,7
11
39,3
14
50.0
Cuối năm 
28
28
11
39.3
12
42,6
5
17,9
So sánh
=
=
+8
+27,6
+1
+3,3
9
32,1
 Qua số liệu khảo sát việc học sinh nói trong giờ tập làm văn lớp 5 như trên, so sánh với thống kê khảo sát đầu năm ta thấy tỉ lệ học sinh biết trình bày vấn đề một cách lưu loát tăng 8 em = 27,6 số học sinh đọc trình bày vấn đề còn lúng túng giảm 9 em = 32,1 %.
C/KẾT LUẬN:
I/ Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI ĐỐI VỚI CÔNG TÁC:
Trong sự nghiệp đổi mới ‘Công nghiệp hoá- hiện đại hoá” Mục tiêu giáo dục là thực hiện giáo dục toàn diện: Đức- Trí - Thể - Mỹ cho học sinh. Chúng ta thự hiện chương trình thay sách đó là chiến dịch lớn của ngành giáo dục. 
Trong đó môn tiếng việt có vị trí hết sức quan trọng trong việc phát triễn tư duy, sáng tạo cho học sinh, giúp cho các em học tốt các môn khác.
Nâng cao chất lượng giảng dạy môn Tiếng Việt nói chung và môn tập làm văn lớp 5 nói riêng góp phần giáo dục toàn diện cho học sinh.
Kinh nghiệm này không chỉ có tác dụng đối với giáo viên trực tiếp giảng dạy mà nó giúp phụ huynh học sinh có cách nhìn đúng đắn hơn về phần dạy Tiếng Việt cho học sinh con em mình.
Trong quá trình học tập đòi hỏi mỗi người phải biết tự học tự tìm tòi sáng tạo torng thực tế. Đó là cả một quá trình phấn đấu không ngừng của thầy và trò trong nhà trường tiểu học. Nhất là đối với học sinh lớp 5 khi luyện nói qua các tiết học Tập làm văn. Là người đặt nền móng cho sự nghiệp giáo dục, đòi hỏi người giáo viên phải thực sự có tâm huyết với nghề nghiệp, có đầu óc suy luận khoa học, sáng tạo mềm dẻo trong việc vận dụng các phương pháp dạy học, thích hợp với đặc điểm tâm sinh lý và điều kiện của học sinh lớp mình dạy.
II. BÀI HỌC KINH NGHIỆM, HƯỚNG PHÁT TRIỂN
Bài học kinh nghiệm:
Để giờ học đạt kết quả tốt thì những việc làm trước khi nói, trong khi nói và sau khi nói phải được tiến hành thường xuyên đối với từng giai đoạn, từng học sinh. Giáo viên phải chuận bị tốt về mọi mặt nội dung cũng như yêu cầu của bài, dự kiến những khả năng có thể xãy ra trong giờ học, chỉ rõ mức độ cần đạt của giờ học để từ đó lựa chọn những phương pháp cho phù hợp.
Muốn học sinh có kĩ năng nói tốt chỉ cần rèn luyện cho các em nói, cách diễn đạt trực tiếp không chỉ trong giờ tập làm văn mà còn ở tất cả các giờ học khác để thành lập thói quen nói tự tin, nói có văn hóa cho học sinh vì giờ tập làm văn là giờ học tổng hợp kiến thức của nhiều phân môn nên cần sự hỗ trợ của các phân môn khác trong việc rèn kĩ năng nói.
Khi đặt câu hỏi cho học sinh cần đặt luu ý đến khả năng từ lời nói của các em vì nếu câu hỏi khá dài rộng sẽ không tổng hợp được kiến thức của học sinh và còn làm giảm khả năng nói của các em. Khi tổ chức cho học sinh nói, giáo viên nên nhập vai cùng các em, đi cùng hướng cảm xúc của các em để các em nói ra cảm xúc của mình. Nghĩa là lúc này giáo viên phải vừa là “đạo diễn” vừa là “ diễn viên”, có như vậy mới thu hút được các em vào giờ học và gây hứng thú để các em nói.
 Trong quá trình học sinh nói giáo viên chú ý cho học sinh trong việc diễn đạt câu đúng, đủ, rõ ý bằng lời văn tự nhiên chân thành và giản dị chưa đòi hỏi sự “chau chuốt” bóng bẩy về lời. Do vậy có thể chấp nhận học sinh dùng nhiều từ ngữ thông dụng có phần “nôm na” chưa thật hay nhưng diễn đạt được ý muốn nói của các em học sinh, có thể dùng nhiều câu ngắn gọn hoặc câu dài kết hợp với ngữ điệu hay cử chỉ, điệu bộ nét mặt để làm tăng sức gợi cảm của câu nói.
Ngoài ra giáo viên cần quan tâm đến cách trình bày mạch lạc giữa các ý để nhằm tạo ra sự thuyết phục đối với ngôn ngữ, giọng nói phải phù hợp với nội dung diễn tả, thái độ thoải mái, tự nhiên.
Tóm lại, cái khó khăn của việc dạy tập làm văn miệng là giáo viên phải giúp học sinh chọn từ ngữ, văn bản nghĩa là học sinh phải thực sự làm việc sáng tạo. Vì vậy, đễ học sinh tạo lập được văn bản nói, giáo viên cần phải tạo được không khí hào hứng, kích thích học sinh muốn nói và mạnh dạn, từ đó hưỡng dẫn các em nói sao cho đạt kết quả tốt nhất.
Việc sử dụng sáng kiến kinh nghiệm có thể đạt hiệu quả cao torng giờ tập làm văn thì người giáo viên phải nắm được quy trình, công việc chuẩn bị của giáo viên cũng cần phải chu đáo, sử dụng lời nói mẫu mực, uốn nắn kịp thời và có cách điều chỉnh phù hợp với đặc điểm tam sinh lý của lứa tuổi học shinh tiểu học, đặc biệt là học sinh lớp 5 để các em có kỹ năng trình bày vấn đề một cách lưu loát, mạch lạc để người nghe có thể hiểu và tiếp nhận nội dung một cách tự nhiên và hiệu quả.
Hướng dẫn phát triển sáng kiến kinh nghiệm
Để sáng kiến kinh nghiệm này có thể áp dụng rộng rãi nhằm nâng cao kỹ năng nói cho học sinh tiễu học nói chung và học sinh tiểu học ở vùng miền núi nói riêng cần có sự cố gắng trong quá trình giảng dạy, đầu tư về trang thiết bị dạy học, có cách tổ chức hoạt động cho học sinh cụ thể để có thể động viện khuyến khích học sinh bộc lộ được những điều mình suy nghĩ của mình qua lời nói.
III/ ĐỀ XUẤT
Để đạt được kết quả trong việc nâng cao chất lượng Tiếng Việt môn lớp 5 chương trình tiểu học mới tôi mong rằng tất cả giáo viên cần nghiên cứu tìm ra phương pháp giảng dạy hay và phù hợp với đối tượng học sinh lớp mình, đầu tư nghiên cứu để rèn luyện các em có đử đức, đủ tài giúp ích nước nhà sau này.
- Mong các bậc phụ huynh học sinh cần trang bị cho con em mình đầy đủ đồ dùng học tập nhằm bổ sung vốn kiến thức, nhắc nhở con em chăm chỉ học bài. 
- Học sinh cần chăm chỉ chịu khó tìm hiểu trao dồi kiến thức qua sách, vở, báo ,chuyện .tự tìm tòi học hỏi, tự phát hiện những kiến thức cho bản thân .
 Trên đây là sáng kiến kinh nghiệm mà tôi đã nghiên cứu và thực nghiệm có hiệu quả trong quá trình giảng dạy phân môn Tập làm văn nói lớp 5. Rất mong được sự đóng góp của các bạn đồng nghiệp và các cấp quản lý để sáng kiến của tôi có thể áp dụng rộng rãi trong các trường tiểu học nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện đối với học sinh Tiểu học.
 Xuyên Mộc, ngày 22 tháng 02 năm 2012
 Người viết 
 Bành Thị Cảnh 
Tài liệu tham khảo
1 . Hoàng Hòa Bình : Dạy văn cho học sinh tiểu học NXB giáo dục năm 1999
2. PGS.TS.Đỗ Đình Hoan : Một số vấn đề cơ bản của chương trình tiểu học mới : 
NXB : Giáo dục năm 2002.
3. Nguyễn Trí : Dạy tập làm văn ở trường tiểu học .NXB : giáo dục năm 2003
4 . Trần Hoàng Túy : Để học tốt các môn học lớp 5 .NXB : giáo dục năm 2006
5. Nguyễn Xuân Hòa: Tài liệu bồi dưỡng giáo viên dạy các môn học lớp 5 NXB-GD năm 2006. 
6. Nguyễn Thị Kim Dung, Hồ Thị vân Anh Tập làm văn 5. Biên soạn theo chương trình mới. NXB Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh năm 2007
7. Nguyễn Minh Thuyết : Tiếng việt 5 (sách giáo viên) Tập 1-2 NXB: giáo dục năm 2008.
8. Nguyễn Minh Thuyết : Tiếng việt 5 (sách giáo khoa) Tập 1-2 NXB: giáo dục năm 2009.
9. Hoàng Hòa Bình, Lê Minh Châu,. Giáo dục kĩ năng sống trong các môn học ở Tiểu học. NXB: giáo dục năm 2010
 Nhận xét của Hội đồng khoa học
trường Tiểu học Xuyên Mộc
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
Nhận xét của Hội đồng khoa học
Phòng giáo dục Huyện Xuyên Mộc
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.

Tài liệu đính kèm:

  • docREN KI NANG NOI TRONG GIO TAP LAM VAN LOP 5.doc