A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Sâu thẳm trong tâm khảm bản thân, từ những năm tháng đầu đời cuộc sống trong bầu sữa mẹ cho đến bây giờ, những lời ru ầu ơ đưa tôi vào giấc ngủ hay những bài văn, bài thơ, lời bình giảng của thầy cô đầy chất trữ tình đã nuôi dưỡng trong tâm hồn tôi tình yêu tiếng Việt.
Tiếng Việt chúng ta rất đẹp, đẹp như thế nào là điều khó nói nhưng đối với mỗi con người Việt Nam, ai cũng đều cảm thấy và thưởng thức một cách tự nhiên cái đẹp của tiếng mẹ đẻ- tiếng nói của quần chúng nhân dân trong ca dao, dân ca cũng như trong lời văn, lời thơ. Có lẽ tiếng Việt của chúng ta đẹp bởi vì tâm hồn của người Việt Nam ta rất đẹp. Như Bác Hồ nói: “Tiếng nói là thứ của cải vô cùng lâu đời và vô cùng quí báu của dân tộc. Chúng ta phải giữ gìn nó, quí trọng nó làm cho nó phổ biến ngày càng rộng khắp” (Hồ Chí Minh – Báo Nhân Dân 9-9-1964). Chính cái giàu cái đẹp đó đã làm nên cái chất tinh hoa của tiếng Việt. Lòng tự hào về truyền thống dân tộc và lòng tự hào về tiếng Việt, nhắc nhỡ bản thân tôi phải biết giáo dục và giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Trước hết là nói đúng và viết đúng chuẩn tiếng Việt về ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp.
Trong thực tế hiện nay, tình trạng học sinh mắc lỗi chính tả rất phổ biến. Như chúng ta đã biết ở tiểu học, chính tả là một phân môn có vị trí đặc biệt quan trọng. Theo nghĩa rộng “ chính tả” (chính: đúng; tả: viết), là những qui định về cách viết đúng với từ ngữ bao gồm cả tên người, tên địa lý, tên tổ chức, cơ quan, đoàn thể, các từ ngữ phiên âm nước ngoài và sử dụng các dấu chấm câu. Phân môn nhằm thực hiện mục tiêu của môn tiếng Việt là phải đầu tự rèn luyện và phát triển năng lực tiếng mẹ đẻ cho học sinh, trong đó có năng lực chữ viết cho học sinh để học tốt hơn trong quá trình học tập các môn học khác, đồng thời giúp học sinh nắm vững qui tắc chính tả và hình thành kỹ năng, kỹ xảo về chính tả.
Người giáo viên muốn dạy đúng chính tả cho học sinh phải biết dựa vào nguyên tắc dạy chính tả, là phải thích hợp với từng đối tượng. Bởi lẽ dù một cộng đồng người Việt Nam nhưng mỗi người có một cách phát âm theo phương ngữ khác nhau. Chữ viết tiếng Việt lại là chữ viết ghi âm tương đối hợp lý. Ở cấp độ âm tiết, nói chung có sự đối ứng một đối một giữa âm và chữ “Phát âm thế nào thì viết thế ấy”.
a. phần mở đầu 1. đặt vấn đề Sâu thẳm trong tâm khảm bản thân, từ những năm tháng đầu đời cuộc sống trong bầu sữa mẹ cho đến bây giờ, những lời ru ầu ơ đưa tôi vào giấc ngủ hay những bài văn, bài thơ, lời bình giảng của thầy cô đầy chất trữ tình đã nuôi dưỡng trong tâm hồn tôi tình yêu tiếng Việt. Tiếng Việt chúng ta rất đẹp, đẹp như thế nào là điều khó nói nhưng đối với mỗi con người Việt Nam, ai cũng đều cảm thấy và thưởng thức một cách tự nhiên cái đẹp của tiếng mẹ đẻ- tiếng nói của quần chúng nhân dân trong ca dao, dân ca cũng như trong lời văn, lời thơ. có lẽ tiếng Việt của chúng ta đẹp bởi vì tâm hồn của người Việt Nam ta rất đẹp. Như Bác Hồ nói: “Tiếng nói là thứ của cải vô cùng lâu đời và vô cùng quí báu của dân tộc. Chúng ta phải giữ gìn nó, quí trọng nó làm cho nó phổ biến ngày càng rộng khắp” (Hồ Chí Minh – Báo Nhân Dân 9-9-1964). Chính cái giàu cái đẹp đó đã làm nên cái chất tinh hoa của tiếng Việt. Lòng tự hào về truyền thống dân tộc và lòng tự hào về tiếng Việt, nhắc nhỡ bản thân tôi phải biết giáo dục và giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Trước hết là nói đúng và viết đúng chuẩn tiếng Việt về ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp. Trong thực tế hiện nay, tình trạng học sinh mắc lỗi chính tả rất phổ biến. Như chúng ta đã biết ở tiểu học, chính tả là một phân môn có vị trí đặc biệt quan trọng. Theo nghĩa rộng “ chính tả” (chính: đúng; tả: viết), là những qui định về cách viết đúng với từ ngữ bao gồm cả tên người, tên địa lý, tên tổ chức, cơ quan, đoàn thể, các từ ngữ phiên âm nước ngoài và sử dụng các dấu chấm câu. Phân môn nhằm thực hiện mục tiêu của môn tiếng Việt là phải đầu tự rèn luyện và phát triển năng lực tiếng mẹ đẻ cho học sinh, trong đó có năng lực chữ viết cho học sinh để học tốt hơn trong quá trình học tập các môn học khác, đồng thời giúp học sinh nắm vững qui tắc chính tả và hình thành kỹ năng, kỹ xảo về chính tả. Người giáo viên muốn dạy đúng chính tả cho học sinh phải biết dựa vào nguyên tắc dạy chính tả, là phải thích hợp với từng đối tượng. Bởi lẽ dù một cộng đồng người Việt Nam nhưng mỗi người có một cách phát âm theo phương ngữ khác nhau. Chữ viết tiếng Việt lại là chữ viết ghi âm tương đối hợp lý. ở cấp độ âm tiết, nói chung có sự đối ứng một đối một giữa âm và chữ “phát âm thế nào thì viết thế ấy”. Hiện nay là giáo viên giảng dạy ở trường tiểu học, tôi nhận thấy rằng việc dạy chính tả là dạy tiếng mẹ đẻ cho học sinh. Môn chính tả là một trong những phân môn quan trọng của bộ môn tiếng Việt. Dạy chính tả cho học sinh là dạy tri thức, kỹ năng chính tả, phát triển năng lực sử dụng ngôn ngữ cho học sinh ở dạng viết vào hoạt động giao tiếp. Tuy nhiên lỗi chính tả trong nhà trường phổ thông là một vấn đề hết sức phổ biến và cần được khắc phục. Qua đề tài này, tôi mong muốn có thêm vốn kiến thức và kinh nghiệm tạo điều kiện thuận lợi cho bản thân nâng cao chất lượng dạy học, giúp bản thân và mỗi người Việt Nam dựa vào tài liệu này có thể dạy và học chính tả một cách trình tự và có kế hoạch, góp phần xây dựng phát triển tiếng Việt thành ngôn ngữ thống nhất toàn dân, ngôn ngữ văn hóa (ngôn ngữ văn minh). 2. cơ sở lý luận Việc hình thành và phát triển năng lực chính tả cho học sinh ở trường tiểu học thực hiện trong các hình thức là dạy cái đúng và sữa chữa khắc phục cái sai. Học sinh được rèn luyện kỹ năng viết qua các hình thức như: Tập chép, viết chính tả, nghe đọc trí nhớ và viết so sánh. ở lớp 5 phân môn chính tả hướng đến 3 nội dung. - Rèn luyện kĩ năng viết chính tả và kĩ năng nghe với gồm: + Chính tả đoạn, bài: Nghe – viết như viết một đoạn trích từ bài tập đọc hoặc từ các văn bản khác có nội dung phù hợp với chủ điểm học tập của mỗi tuần, với độ dài khoảng 100 chữ, yêu cầu học sinh viết đúng mẫu, đúng chính tả, không mắc quá 5 lỗi/ 1 bài, đạt tốc độ trung bình 90 chữ/ 15 phút. + Chính tả âm, vần: đó là ôn lại các qui tắc viết một số chữ như c/k, g/gh, ng/ngh và tiếp tục luyện đúng các từ có âm vần, thanh dễ viết sai chính tả do ảnh hưởng của cách phát âm địa phương. + Chính tả viết hoa. - Rèn luyện một số kĩ năng sử dụng tiếng Việt và phát triển tư duy: rèn luyện cách phát âm, củng cố nghĩa của từ, trau dồi về ngữ pháp tiếng Việt, góp phần phát triển một số thao tác tư duy cơ bản như so sánh, liên tưởng, ghi nhớ... - Mở rộng hiểu biết, góp phần hình thành nhân cách con người mới. Để đạt được các mục đích, nội dung đó người giáo viên cần áp dụng nhiều biện pháp khác nhau, nhưng nhìn chung trong dạy chính tả lớp 5 chủ yếu là hướng về khắc phục. Qua tìm hiểu chúng tôi thấy đã có khá nhiều giải pháp được đưa ra, sau đây là một số hướng chủ yếu: - Nguyên tắc dựa theo ngữ âm học: muốn viết đúng chính tả thì phải phát âm đúng, nghĩa là chính âm trước chính tả. - Dựa vào từ nguyên âm học: muốn viết đúng một tiếng, ngoài cách phát âm đúng, phải biết nghĩa hoặc nguồn gốc tiếng đó. - Muốn viết đúng chính tả phải nắm vững mối quan hệ giữa âm và chữ. Đây là giải pháp tự pháp học, trong đó sự phân biệt như k/c/q, ngh/ng... - Dùng mẹo để viết chính tả: đưa ra một số mẹo phân biệt cách sử dụng nguyên âm, phụ âm, vần... - Nhớ từng chữ để viết chính tả: đòi hỏi người viết phải thuộc lòng mặt chữ của hàng nghìn tiếng vì vậy phải có một sự cố gắng lớn mới thực hiện được. - Ngoài ra còn có những giải pháp được đề xuất như khắc phục lỗi chính tả theo phương châm “sai đâu sửa đấy – sai gì học nấy” của Nguyễn Đức Dương; phải nắm vững các nguyên tắc chính tả (Lê A, Hoàng Văn Thung, Đỗ Xuân Thảo). Mỗi giải pháp đã nêu ở trên đều có tính tích cực góp phần từng bước tháo gỡ, khắc phục hạn chế lỗi chính tả, tuy nhiên đưa vào áp dụng cụ thể trong các trường tiểu học lại là điều khó vì nhiều lý do khách quan lẫn chủ quan. Về phần mình, ở Trường tiểu học Võ Thị Sáu chúng tôi trong nhữg năm qua đã có đầu tư khá nhiều cho việc bàn về dạy chính tả cho học sinh như tổ chức các chuyên đề, các cuộc thi, viết đề tài nghiên cứu... Là một giáo viên có kinh nghiệm tôi đã tích cực tham gia với khá nhiều đề xuất, giải pháp cụ thể. Vì thế có thể xem những nội dung được nêu trong đề tài này là kết quả của một quá trình làm việc nghiêm túc của tập thể giáo viên Trường tiểu học Võ Thị Sáu nói chung và bản thân tôi nói riêng. 3. Cơ sở thực tiễn Đối tượng mà chúng tôi chọn để nghiên cứu lỗi chính tả của học sinh lớp 5A Trường tiểu học Võ Thị Sáu, TX Buôn Hồ, tỉnh đăk Lăk (năm học 2009-2010). Đề tài này thực hiện hai nhiệm vụ chủ yếu: - Phát hiện, chỉ ra những lỗi mang tính phổ biến của HS (thuộc địa phương giảng dạy), tìm ra nguyên nhân. - Nêu một số hướng khắc phục đã đang áp dụng và bước đầu có hiệu quả, đồng thời đưa ra các đề xuất. Để giải quyết nhiệm vụ đặt ra, chúng tôi sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cơ bản sau. - Phương pháp thống kê. Chúng tôi thống kê tất cả lỗi chính tả của học sinh lớp 5A trong các bài chính tả ở học kỳ II. - Phương pháp phân tích ngôn ngữ. Phương pháp phân tích ngôn ngữ được sử dụng để phân tích các loại lỗi chính tả của học sinh, phân tích nguyên nhân phạm lỗi. - Phương pháp so sánh. Phương pháp này dùng để so sánh các loại lỗi, tình hình phạm lỗi của học sinh... Kết quả thống kê, phân loại sẽ được trình bày ở phần phụ lục. b. Nội dung 1. Giới thiệu về Trường tiểu học Võ Thị Sáu – Buôn Hồ - Đăk Lăk Đất nước ta là một quốc gia nhiều dân tộc, mỗi dân tộc có một ngôn ngữ riêng được dùng để giao tiếp giữa các thành viên trong cộng đồng. Bên cạnh đó, ở từng vùng miền lại có những phương ngữ với cách phát âm khác nhau. Điều này cũng có nghĩa là từ sự thay đổi về phát âm cũng sẽ dẫn đến những ảnh hưởng không nhỏ cho học sinh trong viết chính tả. Vì lẽ đó qua khảo sát chúng ta sẽ thấy bên cạnh những lỗi viết mang tính cá biệt còn có lỗi sai khá phổ biến mà chủ yếu do bị ảnh hưởng từ phát âm. Những điều phản ánh đó là thực trạng chung của học sinh cả nước và cũng là của học sinh địa phương tôi dạy nói riêng. Hơn nữa, như tôi đã trình bày ở phần đối tượng nghiên cứu, Đăk Lăk là mảnh đất qui tụ người dân tộc về từ nhiều vùng khác nhau nên sự ảnh hưởng của ngôn ngữ từng dân tộc và phương ngữ lại càng lớn. Phường Đoàn Kết – Buôn Hồ - Đăk Lăk chủ yếu dân tộc Kinh đến từ Bắc chí Nam, nhất là ở các tỉnh miền Trung. Như vậy trong quá trình dạy tiếng Việt nói chung và dạy chính tả nói riêng chúng tôi thấy có mấy trở ngại như sau: - Thứ nhất: sự ảnh hưởng của ngôn ngữ địa phương quá lớn trong một lớp học, đưa đến nhiều lỗi sai khác nhau khi viết chính tả. - Thứ hai: giáo viên cũng đến đây từ nhiều miền quê, ngay từ giọng nói giữa cô và trò cũng có một khoảng cách, có khi giọng cô giảng trò vẫn không nghe. Mặc dù mỗi giáo viên đều đã cố gắng khắc phục, hạn chế âm sắc địa phương (nhất là của tiếng Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Nam, Bình Định) nhưng khó đạt đến trình độ chuẩn mực. Đây là trở ngại tác động vào chất lượng viết chính tả của học sinh, nhất là khi nghe – viết. Và những trở ngại này đã tác động trực tiếp vào những bài chính tả của học sinh mà qua khảo sát của tôi đã thu được. 2. Kết quả nghiên cứu Thống kê kết quả khảo sát chúng tôi có số liệu như sau: Tổng số bài: 100. Số phạm lỗi: 68 bài (chiếm tỷ lệ 68%). Số bài không phạm lỗi: 32 bài (chiếm tỷ lệ 32%). TT Tên bài Tổng số bài Số bài không bị phạm lỗi Số bài phạm lỗi Số tiếng trong bài Số tiếng viết sai Tần số xuất hiện 1 Nhà yêu nước Nguyễn Trung Trực 10 3 7 104 10 24 2 Cánh cam lạc mẹ 10 4 6 80 7 16 3 Trí dũng song toàn 10 4 6 95 11 24 4 Hà Nội 10 3 7 60 11 19 5 Cao Bằng 10 4 6 80 9 21 6 Núi non hùng vĩ 10 2 8 60 8 21 7 Ai là thuỷ tổ loài người 10 4 6 72 10 13 8 Lịch sử Ngày Quốc tế Lao động 10 2 8 98 6 24 9 Cửa sông 10 3 7 96 7 21 10 Đất nước 10 3 7 84 9 22 3. Lỗi chính tả của học sinh Từ thực tế giảng dạy chúng tôi thấy rằng lỗi trong bài viết chính tả của học sinh hết sức phức tạp, trong đó có lỗi phổ biến sau: - Lỗi chính tả do viết sai với phát âm chuẩn. - Lỗi do sai qui tắc chính tả hiện hành. 3.1. Lỗi chính tả do viết sai với phát âm chuẩn: Như chúng ta đã thấy, tiếng Việt có nhiều phương ngữ, t ... i viết nhầm để lưu ý. - Cần vận dụng các biện pháp và phương pháp thích hợp để nâng cao hiệu quả viết chính tả như thường xuyên ôn lại các cấu tạo về âm tiết, các phụ âm, vần đã học ở lớp dưới cho học sinh nắm vững. Trong đó cần chú ý đến tính cá biệt hoá với mỗi đối tượng với những yêu càu khác nhau. Với học sinh yếu kém cần thường xuyên theo dõi, động viên, giáo viên cần dành thêm thời gian cho học sinh viết theo tiến trình từ ít đến nhiều, từ dễ đến khó. Nếu cần thiết có thể cho những học sinh này xem lại bài chính tả trước khi viết và giáo viên lưu ý trước những từ khó để từng em ghi nhớ. Cùng việc rèn luyện, ta cần cố tạo sự tự tin, niềm hứng thú cho các em, tránh sự mặc cảm, chán nản; khuyến khích, khen ngợi kịp thời khi có dấu hiệu tiến bộ. - Để giúp học sinh viết tốt hơn ta nên chọn một số đoạn văn, đoạn thơ trong đó có những tiếng viết sai, cho các em phát hiện lỗi theo hướng loại bỏ sai, tìm cái đúng. - nắm bắt được tâm lý của học sinh là thích được “học mà chơi”, ta còn có thể lồng ghép việc rèn viết chính tả cho học sinh qua các cuộc thi, trò chơi nhỏ như: chọn từ điền vào chổ trống, tìm phụ âm, vần; đọc diễn cảm, viết chữ đúng, viết chữ đẹp. - Bên cạnh đó chúng ta cũng không quên trang bị đầy đủ kiến thức ngôn ngữ học, từ vựng học, tích luỹ kinh nghiệm, tổng hợp được các từ hay viết sai để có sự lưu ý, tăng cường luyện tập liên quan đến những từ đó ở các lớp sau. - Giáo viên cũng nên thường xuyên phối hợp với gia đình, cùng phụ huynh hướng dẫn học sinh biết phát âm đúng, viết đẹp. b) Đối với nhà trường - Lồng ghép trong các hoạt động của chuyên môn, đội thiếu niên, các hoạt động vui chơi bổ ích như: thi viết chữ đẹp, đọc diễn cảm, thi viết nói, tìm từ phụ âm như l/n, ch/tr, s/x... - ngoài thi giữa trò có thể thi cả các cô như: đọc, viết, dạy một tiết chính tả, tổ chức chuyên đề... - Tổ chức điều tra lỗi chính tả của học sinh của các khối lớp, qua đó thống kê các từ sai, tần số sai sót và việc làm này phải được tổ chức thường xuyên liên tục để có hệ thống đánh giá, so sánh, cung cấp tư liệu cho trường, tổ chuyên môn, từng giáo viên để giúp họ định hướng tốt hơn trong việc dạy chính tả, hạn chế lỗi sai trong bài của học sinh. - Thư viện nhà trường cần bổ sung các tư liệu, tài liệu, cẩm nang phục vụ cho việc nghiên cứu, giảng dạy từng bộ môn. c) Đối với các cấp quản lí giáo dục Chúng tôi có mấy đề xuất như sau: - Cần có sự qui định thật cụ thể trong việc dạy một số âm mà còn tồn tại ở những cách viết khác nhau như i/y, ng/ngh, gi/d (kĩ thuật/ kỹ thuật, vật lí/vật lý, giao/dao...). - Nếu tổ chức một số chuyên đề về hướng dẫn học sinh viết chính tả, trong đó cung cấp những kiến thức cơ bản, thiết thực cho giáo viên, nhằm giúp mỗi người nâng cao hơn về cơ sở lý luận và kỹ năng. - bên cạnh đó các tập san của nghành, Báo Giáo dục thời đại cũng nên có chuyên mục riêng về tiếng Việt, trong đó có cả nội dung các nhà giáo trao đổi với nhau về kinh nghiệm giảng dạy và có những điều gay cấn cần tháo gỡ. - Trong biên soạn sách giáo khoa cần có một hệ thống bài tập kết hợp giữa tập đọc – tập viết – chính tả - tập làm văn – luyện từ, câu; chú ý giúp cho học sinh thường xuyên ôn luyện các qui tắc chính tả để các em lưu ý và nhớ lâu. - Trong các trường sư phạm khi đào tạo giáo viên trẻ tương lai cần chú ý trang bị phương pháp dạy từng môn, phân môn, trong đó có cả phương pháp dạy học chính tả, yêu cầu sinh viên phải nắm vững kiến thức lẫn kĩ năng. 6. Kết luận Tiểu luận của chúng tôi thực hiện là sự kết hợp giữa những cơ sở lý luận, yêu cầu đặt ra của việc dạy chính tả và những điều đã rút ra được qua thực tế giảng dạy. Mục đích chủ yếu của tiểu luận này là muốn tìm được tiếng nói chung, cùng đồng nghiệp chia sẽ những suy nghĩ, đánh giá kinh nghiệm đang dạy một phân môn quan trọng của môn tiếng Việt. Trong đây chúng tôi đã trình bày một số biện pháp cần thiết góp phần hạn chế lỗi chính tả cho học sinh lớp 5 và hầu như các biện pháp đã nêu trong quá trình giảng dạy chúng tôi đã chú ý vận dụng. Mặc dù hiệu quả chưa thật trọn vẹn nhưng qua một năm học cũng đã mang lại hiệu quả khả quan. Từ chỗ còn khá nhiều em viết sai thì biểu đồ ngày càng giảm. Số học sinh viết sai, viết xấu đã hạn chế nhiều, thay vào đó có nhiều em viết không những đúng mà còn viết đẹp. Cùng với năng lực chính tả được cải thiện, một số em đọc tiến bộ rõ rệt, hạn chế được ảnh hưởng của âm sắc địa phương. Các em hoà đồng, gắn bó hơn với bạn bè trong lớp. Như vậy, những lỗi của học sinh trong bài chính tả, chúng ta có thể sửa được, tuy nhiên đòi hỏi giáo viên phải kiên trì luyện cho trò và luyện cho mình. Bên cạnh đó chúng tôi cũng đã đề xuất một số kiến nghị cho từng giáo viên, nhà trường và cho nghành giáo dục. Có thể nó còn mang tính phiến diện, chủ quan, có thể đôi điều chưa phù hợp với thực tiễn nhưng ít ra qua đó thêm một lần nữa định hướng cho tôi những việc nên làm và có sự đầu tư đúng mức. Bước đầu nghiên cứu, khảo sát, thống kê, bài tiểu luận chắc chắn còn nhiều thiếu sót, rất mong được đón nhận những ý kiến đóng góp quí báu của thầy cô, đồng nghiệp. Những góp ý đó sẽ giúp tôi rất nhiều trong quá trình giảng dạy của mình. Tiếng Việt của chúng ta giàu và đẹp. Sự giàu có, phong phú đó thể hiện rất sinh động trong lời ăn, tiếng nói hàng ngày, qua văn chương và qua cả những lời viết của học sinh. Trách nhiệm của mỗi người là góp phần để giữ cho tiếng Việt luôn giữ được sự giàu có, vẻ đẹp của mình. Và với mỗi nhà giáo, trách nhiệm đó càng lớn lao hơn bởi chúng ta không chỉ làm tốt bổn phận của một người dân yêu nước, yêu tiếng mẹ đẻ của mình mà còn dẫn dắt gợi lên từ trong bao tâm hồn trẻ thơ tình yêu, sự gắn bó, tự hào về tiếng Việt, hướng dẫn các em biết sử dụng ngôn ngữ dân tộc một cách thành thực, chuẩn xác khéo léo, giữ cho tiếng Việt luôn trong sáng, có sức sống trường tồn cùng với thời gian. Tài liệu tham khảo 1. Lê A (chủ biên), phương pháp dạy học tiếng Việt, NXB ĐH Sư phạm Hà Nội, 2003. 2. Bộ giáo cụ và đào tạo, Chương trình giáo dục phổ thông – Bậc tiểu học, NXB Giáo dục 2006. 3. Nguyễn Đức Dương, Vấn đề sửa lỗi chính tả cho học sinh phổ thông. 4. Lê Trung Hoa, Mẹo vặt chính tả, NXB Trẻ, 1984. 5. Đỗ Đình Hoan, Một số vấn đề cơ bản của chương trình tiểu học mới, NXB Giáo dục, 2002. 6. Phan Ngọc, Chửa lỗi chính tả cho học sinh (in lần thứ hai), NXB Giáo dục, 1997. 7. Hoàng Văn Thung, Đỗ Xuân Thảo, Dạy học chính tả ở tiểu học. 8. Nguyễn Minh Thuyết, Hỏi đáp về dạy học tiếng Việt 4 – 5. 9. Lê ngọc Trụ, Chính tả Việt ngữ, Sài Gòn, 1960. Phụ lục Lỗi chính tả của từng bài Nhà yêu nước nguyễn trung trực tt Tiếng đúng Tiếng sai Tần số xuất hiện tt Tiếng đúng Tiếng sai Tần số xuất hiện 1 Trung Chung 1 2 Trực Chực 2 3 Long nong 2 4 Tây tây 3 5 Nam nam 5 6 Bộ bộ 1 7 dội rội 2 8 giặc dặc, rặc 5 9 hành hằn 2 10 hình hìn 2 Cánh cam lạc mẹ tt Tiếng đúng Tiếng sai Tần số xuất hiện tt Tiếng đúng Tiếng sai Tần số xuất hiện 1 lạc nạc 3 2 gai ghai 2 3 góc ghóc 2 4 kêu cêu 1 5 trắng chắng, trắn 2 6 giã dã, giả 2 7 gạo ghạo 1 8 râm dâm 1 9 ran dan 2 trí dũng song toàn tt Tiếng đúng Tiếng sai Tần số xuất hiện tt Tiếng đúng Tiếng sai Tần số xuất hiện 1 Việt việt, vệt 3 8 văn dăn 2 2 Nam nam, lam 3 9 sống xống 3 3 Hán hán 2 10 chết trết 3 4 Nguyên Nghuyên 2 5 Bạch bạch, bặt 2 6 Đằng đằng 2 7 Giang dang 2 Hà nội tt Tiếng đúng Tiếng sai Tần số xuất hiện tt Tiếng đúng Tiếng sai Tần số xuất hiện 1 Tháp tháp, thát 2 10 xa sa 2 2 Bút bút 1 11 trong chong 1 3 quay qoay 2 4 nổi lổi 1 5 gió dó 1 6 Ba ba 1 7 Đình đình, đìn 2 8 giặc giặt, dặc 2 9 chong trong 4 Cao bằng tt Tiếng đúng Tiếng sai Tần số xuất hiện tt Tiếng đúng Tiếng sai Tần số xuất hiện 1 Đèo đoè, đèo 6 2 Gió Dó 2 3 Bắc bắc, bắt 2 4 rồi dồi 3 5 dịu diệu, rịu 2 6 dàng giàng 2 7 yêu iêu 1 8 sâu xâu 1 9 sắc xắc, sắt 2 Núi non hùng vĩ tt Tiếng đúng Tiếng sai Tần số xuất hiện tt Tiếng đúng Tiếng sai Tần số xuất hiện 1 Tam tam, tâm 2 2 Đường đường. đườn 2 3 chín chính, trín 2 4 chính chín 1 5 Liên liên, niên 3 6 Sơn sơn, xơn 2 7 păng phăng 4 8 Sa sa, xa 2 9 Pa pha 3 Ai là thuỷ tổ loài người tt Tiếng đúng Tiếng sai Tần số xuất hiện tt Tiếng đúng Tiếng sai Tần số xuất hiện 1 Chúa chúa, trúa 2 9 nghiên ngiên 1 2 Trời trời, chời 2 10 cứu cíu, kíu 2 3 truyền chuyền 1 4 thuyết thuết 1 5 Trung trung 1 6 Quốc quốc 1 7 Sác Xác 1 8 uyn uynh 1 lịch sử ngày quốc tế lao động tt Tiếng đúng Tiếng sai Tần số xuất hiện tt Tiếng đúng Tiếng sai Tần số xuất hiện 1 gô ghô 6 7 đặc đặt 2 2 Mĩ mĩ, mỉ 3 8 biệt bệt 2 3 làm nàm 3 4 việc việt, vệt 2 5 xả sả 3 6 súng xúng 3 Cửa sông tt Tiếng đúng Tiếng sai Tần số xuất hiện tt Tiếng đúng Tiếng sai Tần số xuất hiện 1 nông lông 2 7 non lon, nong 2 2 sâu xâu 4 3 lưỡi nưỡi, lưởi 3 4 giã dả 2 5 xuống suống, xuốn 5 6 núi nuối, lúi 3 đất nước tt Tiếng đúng Tiếng sai Tần số xuất hiện tt Tiếng đúng Tiếng sai Tần số xuất hiện 1 rừng dừng 4 8 râm dâm 3 2 tre che 3 9 khuất khất 2 3 nghe nge 3 rì dì 2 4 núi nuối 2 5 bát bác 2 6 ngát ngác 2 MụC LụC a. mở đầu 1. Đặt vấn đề 1 2. Cơ sở lý luận 2 3. Cơ sở thực tiễn 3 B. Nội dung 1. giới thiệu về Trường tiểu học Võ Thị Sáu 3 2. Kết quả nghiên cứu 4 3. Lỗi chính tả của học sinh. 4 3.1 Lỗi chính tả do viết sai với phát âm chuẩn. 3.2 Lỗi do sai qui tắc chính tả hiện hành. 3.3 Lỗi do ảnh hưởng của phát âm địa phương. 4. Một số biện pháp khắc phục lỗi cho học sinh. 7 4.1 giáo viên cần luyện đọc, phát âm theo đúng chuẩn. 4.2 Cần chú ý nhắc nhỡ học sinh phân biệt chữ thường và chữ viết in 4.3 Hạn chế lỗi viết sai phụ âm đầu. 4.4 Khắc phục lỗi phát âm địa phương cho học sinh. 5. Một số kiến nghị 8 6. Kết luận 10 7. Tài liệu tham khảo 11 8. Phụ lục 12
Tài liệu đính kèm: