Văn học là nghệ thuật của ngôn ngữ, là sự nhận thức về thế giới cuộc sống con người và xã hội. Tác phẩm văn học dùng phương tiện ngôn từ để sáng tạo nên những hình tượng về cuộc sống con người, quê hương, xử sở và đem lại cho người đọc những rung cảm thực sự trong sáng. Trong nhà trường tiểu học ở Việt Nam đã coi Tiếng Việt là một môn học trung tâm, làm nền móng các môn học khác.
Môn Tiếng Việt ở trường tiểu học có nhiệm vụ vô vùng quan trọng đó là hình thành 4 kỹ năng: Nghe – nói - đọc – viết cho học sinh. Tập đọc là một phân môn của chương trình Tiếng Việt bậc tiểu học. Đây là phân môn có vị trí đặc biệt trong chương trình vì nó đảm nhiệm việc hình thành và phát triển kỹ năng đọc, một kỹ năng quan trọng hàng đầu của học sinh ở bậc tiểu học đầu tiên. Kỹ năng đọc có nhiều mức độ: đọc đúng, đọc nhanh (lưu loát, trôi chảy), đọc có ý thức (thông hiểu được nội dung những điều mình đọc hay còn gọi là đọc hiểu) và đọc diễn cảm. Khi học sinh đọc tốt, viết tốt thì các em mới có thể tiếp thu các môn học khác một cách chắc chắn. Từ đó học sinh mới hoàn thành được năng lực giao tiếp của mình. Những kỹ năng này không phải tự nhiên mà có. Nhà trường phải từng bước hình thành và trường tiểu học nhận nhiệm vụ đặt viên gạch đầu tiên.
PHÒNG GD- ĐT GIO LINH TRƯỜNG TIỂU HỌC THỊ TRẤN CỬA VIỆT ------------------- @ & ? ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU NGHIỆP VỤ SƯ PHẠM THỂ HIỆN VIỆC LÀM MỚI Đề tài: MỘT SỐ BIỆN PHÁP LUYỆN ĐỌC ĐÚNG CHO HỌC SINH LỚP 1 TRONG CÁC TIẾT TẬP ĐỌC Người viết : Trần Thị Quýt Tổ : Một Người hướng dẫn : * Hội đồng Sư phạm Trường tiểu học Thị Trấn Cửa Việt – Gio Linh- Quảng trị Cửa Việt , Tháng 3 năm 2010. TÊN ĐỀ TÀI: "MỘT SỐ BIỆN PHÁP LUYỆN ĐỌC ĐÚNG CHO HỌC SINH LỚP 1 TRONG CÁC TIẾT TẬP ĐỌC" Mở đầu ' & ' I-/ LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI THỂ HIỆN VIỆC LÀM MỚI Văn học là nghệ thuật của ngôn ngữ, là sự nhận thức về thế giới cuộc sống con người và xã hội. Tác phẩm văn học dùng phương tiện ngôn từ để sáng tạo nên những hình tượng về cuộc sống con người, quê hương, xử sở và đem lại cho người đọc những rung cảm thực sự trong sáng. Trong nhà trường tiểu học ở Việt Nam đã coi Tiếng Việt là một môn học trung tâm, làm nền móng các môn học khác. Môn Tiếng Việt ở trường tiểu học có nhiệm vụ vô vùng quan trọng đó là hình thành 4 kỹ năng: Nghe – nói - đọc – viết cho học sinh. Tập đọc là một phân môn của chương trình Tiếng Việt bậc tiểu học. Đây là phân môn có vị trí đặc biệt trong chương trình vì nó đảm nhiệm việc hình thành và phát triển kỹ năng đọc, một kỹ năng quan trọng hàng đầu của học sinh ở bậc tiểu học đầu tiên. Kỹ năng đọc có nhiều mức độ: đọc đúng, đọc nhanh (lưu loát, trôi chảy), đọc có ý thức (thông hiểu được nội dung những điều mình đọc hay còn gọi là đọc hiểu) và đọc diễn cảm. Khi học sinh đọc tốt, viết tốt thì các em mới có thể tiếp thu các môn học khác một cách chắc chắn. Từ đó học sinh mới hoàn thành được năng lực giao tiếp của mình. Những kỹ năng này không phải tự nhiên mà có. Nhà trường phải từng bước hình thành và trường tiểu học nhận nhiệm vụ đặt viên gạch đầu tiên. Nên việc dạy học phải có định hướng, có kế hoạch từ lớp 1 đến lớp 5. Đặc biệt đối với học sinh lớp 1 - Lớp đầu cấp - việc dạy đọc cho các em thật vô cùng quan trọng bởi các em có đọc tốt được ở lớp 1 thì khi học các lớp tiếp theo các em mới nắm bắt được những yêu cầu cao hơn của môn Tiếng Việt. Việc dạy đọc ở lớp 1 cũng quan trọng bởi từ chỗ các em còn phải đọc đánh vần từng tiếng đến việc đọc thông thạo được một văn bản là việc tương đối khó với các em mà mục tiêu của giờ dạy Tiếng Việt là phải hướng đến giáo dục học sinh yêu tiếng Việt bằng cách nêu bật sức mạnh biểu đạt của Tiếng Việt, sự giàu đẹp của âm thanh, sự phong phú của ngữ điệu trong việc biểu đạt nội dung. Thế nhưng hiện nay, ở trường tiểu học, mặt âm thanh của ngôn ngữ, đặc biệt ngữ điệu chưa được chú ý đúng mức. Đó là một trong những lý do cho học sinh của chúng ta đọc và nói chưa tốt. Đó cũng là lý do khiến cho trong nhiều trường hợp, học sinh không hiểu đúng văn bản được đọc. Cũng như nhiều giáo viên lớp 1 khác, tôi suy nghĩ rất nhiều về cách dạy tập đọc ở lớp 1. Đặc biệt là rèn cho học sinh không những chỉ đọc thông được văn bản mà còn phải đọc đúng văn bản được đọc. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để giúp các em đọc đúng tiếng, đọc liền tiếng trong từ, trong câu, đọc đúng ngữ điệu, biết cách ngắt nghỉ hơn trong văn bản thơ, cũng như văn bản văn xuôi. Những băn khoăn này chính là lý do tôi chọn đề tài: “Một số biện pháp luyện đọc đúng cho học sinh lớp 1 trong các tiết tập đọc.” II-/ MỤC ĐÍCH NHIỆM VỤ CỦA VIỆC LÀM NÀY Tập đọc là phân môn thực hành vì vậy nhiệm vụ của nó là hình thành kỹ năng đọc cho học sinh. Kỹ năng đọc có nhiều mức độ: đọc đúng, đọc nhanh. Dạy đọc giáo dục lòng ham đọc sách cho học sinh giúp cho các em thấy được đây chính là con đường đặc biệt để tạo cho mình một cuộc sống trí tuệ phát triển. Tập đọc góp phần làm giàu vốn kiến thức ngôn ngữ, bồi dưỡng cho học sinh lòng yêu cái thiện và cái đẹp, dạy cho các cách tư duy có hình ảnh. Đặc điểm của dạy tập đọc lớp 1 chính là ở chỗ :đây là bước chuyển tiếp từ dạy “học vần” sang dạy “tập đọc” (ở lớp 2). Giờ tập đọc ở lớp 1 vận dụng cả phương pháp học vần, cả phương pháp tập đọc. Yêu cầu của giờ tập đọc lớp 1 là củng cố hệ thống âm vần đã đọc (nhất là các vần khó) đọc đúng tiếng, liền tiếng trong từ, trong câu, đoạn, bài. Bước đầu biết cách ngắt hơi ở các dấu câu, biết lên giọng và hạ giọng. Để làm tốt được những nhiệm vụ nêu trên, đề tài của tôi mục đích đưa ra một số biện pháp để giúp học sinh đọc thông được văn bản và đọc đúng ngữ điệu nói chung, ngắt giọng đúng nói riêng nhằm nâng cao chất lượng của 1 giờ dạy tập đọc ở lớp 1. III-/ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu là thực trạng dạy đọc của lớp 1 ở trường tiểu học hiện nay nói chung và HS ở trường Tiểu học Thị trấn Cửa Việt nói riêng. IV-/ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Để thực hiện đề tài này tôi đã sử dụng những phương pháp sau : - Phương pháp thu nhận tài liệu; - Phương pháp điều tra khảo sát thực tế; - Dạy thực nghiệm; - Trao đổi, toạ đàm với đồng nghiệp. Chương I CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG I-/ VỊ TRÍ, NHIỆM VỤ CỦA DẠY ĐỌC Ở TIỂU HỌC 1. Vị trí của dạy đọc ở tiểu học a. Khái niệm đọc: Môn Tiếng Việt ở trường phổ thông có nhiệm vụ hình thành năng lực hoạt động ngôn ngữ cho học sinh. Năng lực hoạt động ngôn ngữ được thể hiện bốn dạng hoạt động, tương ứng với chúng là bốn kỹ năng nghe, nói, đọc, viết. Đọc là một dạng hoạt động ngôn ngữ, là quá trình chuyển dạng thức chữ viết sang lời nói có âm thanh và thông hiểu nó (ứng với hình thức đọc thành tiếng), là quá trình chuyển trực tiếp từ hình thức chữ viết thành các đơn vị nghĩa không có âm thanh (ứng với đọc thầm). b. Ý nghĩa của việc đọc Những kinh nghiệm của đời sống, những thành tựu văn hoá, khoa học, tư tưởng, tình cảm của các thế hệ trước và của cả những người đương thời phần lớn đã được ghi lại bằng chữ viết. Nếu không biết đọc thì con người không thể tiếp thu nền văn minh của loài người, không thể sống một cuộc sống bình thường, có hạnh phúc với đúng nghĩa của từ này trong xã hội hiện đại. Biết đọc, con người đã nhân khả năng tiếp nhận lên nhiều lần, từ đây anh ta biết tìm hiểu, đánh giá cuộc sống nhận thức các mối quan hệ tự nhiên, xã hội, tư duy. . Đầu tiên trẻ phải học đọc, sau đó trẻ phải đọc để học. Đọc giúp trẻ em chiếm lĩnh được một ngôn ngữ để dùng trong giao tiếp và học tập. Nó là công cụ để học tập các môn học khác. Nó tạo ra hứng thú và động cơ học tập. Nó tạo điều kiện để học sinh có khả năng tự học và tinh thần học tập cả đời. Nó là một khả năng không thể thiếu được của con người văn minh. Đọc một cách có ý thức cũng sẽ tác động tích cực tới trình độ ngôn ngữ cũng như tư duy của người đọc, việc dạy đọc sẽ giúp học sinh hiểu biết hơn, bồi dưỡng ở các em lòng yêu cái thiện và cái đẹp, dạy cho các em biết suy nghĩ một cách logic cũng như biết tư duy có hình ảnh. Như vậy đọc có một ý nghĩa to lớn còn vì nó bao gồm các nhiệm vụ giáo dưỡng, giáo dục và phát triển. 2. Nhiệm vụ của dạy đọc ở tiểu học Những điều vừa nêu trên khẳng định sự cần thiết của việc hình thành và phát triển một cách có hệ thống và có kế hoạch năng lực đọc cho học sinh. Tập đọc với tư cách là một phân môn của Tiếng Việt ở tiểu học có nhiệm vụ đáp ứng yêu cầu này – hình thành và phát triển năng lực đọc cho học sinh. Phân môn học vần cũng thực hiện nhiệm vụ dạy đọc nhưng mới dạy đọc ở mức độ sơ bộ nhằm giúp học sinh sử dụng bộ mã chữ âm. Việc thông hiểu văn bản chỉ đặt ra ở mức độ thấp và chưa có hình thức chuyển thẳng từ chữ sang nghĩa (đọc thầm). Như vậy, tập đọc với tư cách là một phân môn tiếng Việt tiếp tục những thành tựu dạy học mà học cần đạt được, nâng lên một mức đầy đủ hoàn chỉnh hơn. Tập đọc là một phân môn thực hành nhiệm vụ quan trọng nhất của nó là hình thành năng lực đọc cho học sinh. Năng lực đọc được tạo nên từ bốn kỹ năng cũng là bốn yêu cầu về chất lượng của “đọc”: đọc đúng, đọc nhanh (đọc lưu loát, trôi chảy), đọc có ý thức (thông hiểu được nội dung những điều mình đọc hay còn gọi là đọc hiểu) và đọc diễn cảm. Bốn kỹ năng này được hình thành trong 2 hình thức đọc: đọc thành tiếng và đọc thầm. Chúng được rèn luyện đồng thời và hỗ trợ lẫn nhau. Sự hoàn thiện một trong những kỹ năng này sẽ có tác động tích cực đến những kỹ năng khác. . Vì vậy, trong dạy đọc không thể xem nhẹ yếu tố nào. Nhiệm vụ thứ hai của dạy đọc là giáo dục lòng ham đọc sách, hình thành thói quen làm việc với văn bản, với sách cho học sinh. Nói cách khác thông qua việc dạy đọc phải giúp học sinh thích đọc và thấy được rằng khả năng đọc là có lợi ích cho các em trong cả cuộc đời, phải làm cho học sinh thấy đó là một trong những con đường đặc biệt để tạo cho mình một cuộc sống trí tuệ đầy đủ và phát triển. Ngoài ra việc đọc còn có những nhiệm vụ khác đó là làm giàu kiến thức về ngôn ngữ, đời sống và kiến thức văn hoá cho học sinh, phát triển ngôn ngữ và tư duy, giáo dục tư tưởng đạo đức, tình cảm, thị hiếu thẩm mỹ cho các em. II-/ NHỮNG CƠ SỞ CỦA VIỆC DẠY ĐỌC Ở TIỂU HỌC 1. Cơ sở tâm lý, sinh lý của việc dạy đọc Như trên đã nói, đọc là một hoạt động trí tuệ phức tạp mà cơ sở là việc tiếp nhận thông tin bằng chữ viết dựa vào các hoạt động của cơ quan thị giác. Chúng ta đi vào phân tích đặc điểm của quá trình này. - Đọc được xem như là một hoạt động có hai mặt quan hệ mật thiết với nhau, là việc sử dụng bộ mã gồm hai phương diện. Một mặt đó là quá trình vận động của mắt, sử dụng bộ mã chữ - âm để phát ra một cách trung thành nhưng dòng văn tự ghi lại lời nói âm thanh. Thứ hai đó là sự vận động của tư tưởng, tình cảm, sử dụng bộ mã chữ - nghĩa tức là mối liên hệ giữa các con chữ và ý tưởng, các khái niệm chứa đựng bên trong để nhớ và hiểu cho được nội dung những gì được đọc. - Đọc bao gồm những yếu tố như tiếp nhận bằng mắt hoạt động của các cơ quan phát âm, các cơ quan thính giác và thông hiểu những gì được đọc. Càng ngày những yếu tố này càng gần nhau hơn, tác động đến nhau nhiều hơn. Nhiệm vụ cuối cùng của sự phát triển kỹ năng đọc là đạt đến sự tổng hợp giữa những mặt riêng lẻ này của quá trình đọc, đó là điểm phân tích biết người mới biết đọc và người đọc thành thạo. Càng có khả năng tổng hợp các mặt trên bao nhiêu thì việc đọc càng hoàn thiện, càng chính xác, càng biểu cảm bấy nhiêu. Để có giờ tập đọc đạt kết quả tốt ngườ ... ra và nghĩa của nó sẽ không rõ ràng. Hay câu “Buổi chiều bé chào cô” cũng tương tự tôi đã sửa cách đọc bài thơ trên như sau: Buổi sáng / bé chào mẹ Chạy tới / ôm cổ cô Buồi chiều / bé chào cô Rồi / sà vào lòng mẹ Mặt trời mọc / rồi lặn Trên đôi chân lo ton Hai chân trời / của con Là mẹ / và cô giáo Thí dụ 2: Bài “Kể cho bé nghe” Khi đọc học sinh thường ngắt mỗi dòng thơ một lần là do thói quen nhưng tôi đã sửa lại và hướng dẫn cho các em cách đọc vắt dòng: cuối dòng 1 đọc vắt luôn sang dòng 2, cuối dùng 3 đọc vắt luôn sang dòng 4. Cứ như thế cho đến hết bài. c. Đọc đúng: dạng văn xuôi Tương tự như ở thơ, giáo viên cần chú trong rèn cho các em biết ngắt, nghỉ hơi cho đúng. Cần phải dựa vào nghĩa và các dấu câu để ngắt hơi cho đúng. Khi đọc không được tách một từ ra làm hai, tức là không ngắt hơi trong một từ. Việc ngắt hơi phải phù hợp với các dấu câu, nghĩ ít ở dấu phẩy, nghỉ lâu hơn ở dấu chấm. Đối với những câu văn dài cần hướng dẫn học sinh ngắt hơi cho phù hợp. Cụ thể tôi cho học sinh tự tìm những câu văn dài đó hoặc do chính giáo viên đưa ra. Sau đó yêu cầu học sinh xác định cách ngắt giọng, gọi học sinh nhận xét đúng sai. Đối với học sinh lớp 1 giáo viên cũng chưa nên hỏi nhiều quá về việc tại sao các em lại ngắt giọng như vậy mà nếu thấy đúng thì giáo viên công nhận ngay, còn nếu sai thì sửa cho các em và giải thích để các em thấy rõ hơn. Sau khi xác định ngắt giọng ở mỗi câu văn dài bao giờ giáo viên cũng phải nhấn mạnh cho các em thấy tầm quan trọng trong việc ngắt, nghỉ đúng ở các câu văn, đoạn văn. Muốn xác định cách ngắt giọng đúng thì phải dựa vào nghĩa vào các tiếng, từ, dấu câu. Thí dụ: Bài “Trường em” Câu dài trong bài cần hướng dẫn cách ngắt nghỉ hơi là: “Ở trường / có cô giáo hiền như mẹ / có nhiều bè bạn thân thiết như anh em /” Tôi đã chép câu này lên bảng và hướng dẫn cách ngắt hơi như trên (vì đây là bài đầu tiên trong chương trình tập đọc nên tôi hướng dẫn luôn cách đọc). Thí dụ Bài “Vì bây giờ mẹ mới về” Tôi đã hướng dẫn học sinh đọc từng câu thoại của mẹ và của con. Những câu hỏi của mẹ: Con làm sao thế ? Đứt khi nào thế ? (đọc lên giọng cuối câu) Những câu trả lời của cậu bé. Con bị đứt tay. Lúc nãy ạ ! Vì bây giờ mẹ mới về (đọc xuống giọng ở cuối câu) Cũng như thơ, sau khi sửa xong lỗi ngắt giọng cho học sinh, giáo viên phải gọi nhiều em đọc, các học sinh khác nghe và nhận xét bạn đọc.Việc luyện đọc cho học sinh đọc đúng từ, câu sẽ giúp cho việc đọc đoạn, bài được trôi chảy, lưu loát hơn và học sinh nắm chắc được cách đọc đúng văn bản được học mà không phải tình trạng học vẹt. Để tiết học nhẹ nhàng, không nhàm chán mà lại nhiều em được luyện đọc thì giáo viên phải tổ chức đọc theo nhiều hình thức khác nhau như đọc cá nhân, đọc theo nhóm, theo tổ hoặc đồng thanh. Những hình thức này còn giúp giáo viên kiểm soát được khả năng đọc của toàn thể học sinh trong lớp. d. Luyện đọc củng cố và nâng cao Để giúp học sinh đọc bài một cách chắc chắn, giáo viên cần dành thời gian để luyện đọc củng cố và nâng cao. Trong phần này giáo viên cho học sinh luyện đọc cá nhân – giáo viên cần chú ý tới các em đọc yếu để em đó được tham gia đọc – giáo viên cần động viên khích lệ kịp thời. Trong quá trình học sinh đọc giáo viên quan tâm theo dõi, uốn nắn, sửa sai cho các em. Đối với những bài đọc có lời đối thoại nên cho các em đọc theo lối phân vai. Đối với bài thơ cần cho các em đọc nhiều. Một tiết học tập đọc chỉ có 35 – 40 phút vì vậy để đảm bảo thời gian và chất lượng giờ học, học sinh phải đọc trước văn bản ở nhà. Giáo viên cần có sự chuẩn bị chu đáo, phải đưa ra các tình huống có thể xảy ra khi hướng dẫn học sinh đọc cho đúng, cho hay. Muốn vậy giáo viên phải luôn trau dồi kiến thức, luôn thay đổi phương pháp dạy học cho phù hợp với sự phát triển của xã hội. Chương IV DẠY THỰC NGHIỆM Tôi đã tiến hành dạy thực nghiệm ở khối lớp 1 của mình. Sau đây là bài tập đọc mà tôi xin trình bày giáo án trong đề tài đó là bài “Sau cơn mưa” khi dạy hai bài này tôi đã áp dụng những biện pháp nêu trên để rèn đọc cho học sinh đạt kết quả tốt. Dưới đây là nội dung giáo án đó Môn: Tập đọc Tiết số: 1 Tuần: 31 Lớp 1 Tên bài dạy: Sau cơn mưa I – Mục tiêu : Giúp học sinh: + Đọc trơn cả bài “Sau cơn mưa” + Luyện đọc các từ ngữ “mưa rào, đoá râm bụt, xanh bóng nhởn nhơ, sáng tựa, quay quanh, giội rửa” + ôn vần ây, uây II - Đồ dùng dạy học : - Giáo viên : Tranh hoa râm bụt và tranh vẽ như SGK - Học sinh : Sách giáo khoa III – Hoạt động dạy học chủ yếu: T.gian dự kiến Hoạt động của thầy Hoạt động của trò 5’ A. Bài cũ : Bài Luỹ tre + Đọc khổ thơ 1 của bài và trả lời câu hỏi: Khổ thơ này tả luỹ tre vào buổi nào? Em thích hình ảnh nào của luỹ tre vào buổi sớm? + Đọc khổ thơ 2 của bài và trả lời câu hỏi: Khổ thơ tả luỹ tre vào buổi nào? Em thích hình ảnh nào trong khổ thơ này? - Mỗi khổ thơ một học sinh đọc và trả lời câu hỏi B. Bài mới 1. Giới thiệu bài : 2’ Giáo viên dùng lời: Mùa hè thường có các trận mưa rất to nhưng mau tạnh, gọi là mưa rào. Hôm nay các em sẽ học một bài văn tả cảnh vật sau một cơn mưa rào ® Giáo viên ghi bảng tên đầu bài. 2. Hướng dẫn luyện đọc a. Giáo viên đọc mẫu - Giọng chậm, đều, tươi vui Học sinh theo dõi bài đọc ở bảng b. Hướng dẫn học sinh đọc * Luyện đọc từ ngữ Giáo viên gọi 1 học sinh giỏi đọc to những từ ngữ mà SGK yêu cầu luyện đọc ® cô ghi bảng các từ đó: mưa rào, đoá râm bụt, xanh bóng nhởn nhơ, sáng rực, mặt trời quây quanh, vườn 5’ - Giáo viên gọi cá nhân học sinh đọc lần lượt từng từ một cho đến hết và kết hợp phân tích những tiếng mà học sinh dễ lẫn khi đọc và viết: rào, đoá, xanh, quây, quanh Cá nhân học sinh đọc lần lượt từng từ và cho đến hết kết hợp phân tích tiếng theo yêu cầu của giáo viên - Lưu ý: Tập trung gọi những em đọc còn yếu - Trong khi học sinh đọc giáo viên kết hợp giải nghĩa từ: + Đoá râm bụt: Sử dụng tranh hoa râm bụt cho học sinh quan sát + Nhởn nhơ: Chỉ hoạt động chậm không tập trung * Luyện đọc câu: Giáo viên yêu cầu học sinh theo dõi SGK và cho biết xem bài đọc này có mấy câu ? - Học sinh theo dõi và trả lời bài đọc có 5 câu 5’ - 7’ - Giáo viên gọi 1 nhóm 5 em đọc nối tiếp nhau từng câu một cho đến hết bài. Sau đó hỏi học sinh trong lớp xem trong bài này có câu nào dài mà khi đọc các em cần phải ngắt nghỉ hơi cho đúng và gọi các em đọc theo cách của mình. - 1 nhóm 5 học sinh đọc nối tiếp - Cá nhân học sinh tìm câu dài và đọc to trước lớp. Các bạn nhận xét - Tập trung luyện đọc 2 câu sau: + Mấy đám mây bông trôi nhởn nhơ / sáng rực lên trong ánh mặt trời. + Mẹ gà mừng rỡ / “tục tục” / dắt bầy con quây quanh vũng nước đọng trong vườn - Nhiều em luyện đọc câu sau khi đã sửa theo hướng dẫn của giáo viên. - Hình thức đọc: cá nhân nhóm, lớp. Khi bạn đọc, học sinh khác nghe và nhận xét xem bạn đọc đúng hay sai - Giáo viên giới thiệu câu: “Mẹ gà” cần ngắt giọng ở sau tiếng “rỡ” và tiếng “tục” để nhấn giọng cho tiếng gà mẹ gọi đàn con. - Sau khi đã tập trung luyện đọc các câu dài xong, giáo viên lại cho học sinh đọc nối tiếp từng câu cho đến hết bài - 2 nhóm đọc nối tiếp 6’ * Luyện đọc đoạn Chia bài làm 2 đoạn: - Đoạn 1: từ đầu .. mặt trời - Đoạn 2: còn lại - Gọi học sinh đọc nối tiếp đoạn theo nhóm - 2 nhóm mỗi nhóm 2 em đọc nối tiếp * Luyện đọc toàn bài Gọi học sinh đọc - Học sinh đọc theo, cá nhân, nhóm. Cuối cùng cả lớp đồng thanh đọc 3’ Nghỉ giữa giờ Hát múa tập thể 3. Ôn vần: ây, uây - Yêu cầu học sinh đọc to yêu cầu của từng bài tập của SGK và giải từng bài 10’ + Bài 1: Tìm tiếng trong bài có chứa vần "ây” - Cá nhân học sinh tìm từ ở SGK và trả lời + Bài 2: Tìm tiếng ngoài bài có chứa vần “ây, uây” Giáo viên nhận xét câu trả lời của học sinh - Học sinh tìm và ghép trên bộ chữ 4. Củng cố : Ghép từ thành câu Giáo viên đưa ra các thẻ từ không theo thứ tự: Sau cơn mưa mọi vật đều sáng và tươi Yêu cầu học sinh ghép thành câu - Thi ghép theo nhóm đôi KIỂM TRA LẤY KẾT QUẢ Sau khi tiến hành dạy thực nghiệm với giáo án trên ở lớp 1B và 1C tôi tiến hành kiểm tra miệng (gọi học sinh đọc cả bài), kết quả thu được như sau: Lớp Số học sinh đọc đúng, lưu loát (%) Số học sinh đọc không đúng (%) 1B 98% 2% 1C 97% 3% Căn cứ vào những kết quả thu được ở trên tôi nhận thấy việc áp dụng một số biện pháp ở chương 3 vào việc hướng dẫn học sinh luyện đọc đúng thực sự nâng cao hiệu quả của giờ dạy, phát huy được tính chủ động sáng tạo và tạo được sự hứng thú say mê của học sinh. Kết luận Qua quá trình nghiên cứu thực nghiệm để dạy tốt phân môn tập đọc mà nội dung trọng tâm là truyền kỹ năng đọc đúng cho học sinh lớp 1. Tôi thấy rằng đây là một phương pháp và hình thức nhằm tích cực hoá hoạt động của học sinh vì khi thực hiện phương pháp và hình thức này học sinh hoàn toàn chủ động tự giác sáng tạo và tích cực tiếp thu tri thức mới. Đây là mục đích của quá trình dạy học hiện nay và hoàn toàn phù hợp với đặc điểm phát triển sinh lý của học sinh lớp 1. Trên đây là những ý kiến nhỏ thể hiện việc làm mới của bản thân tôi nhằm giúp giáo viên tham khảo khi rèn đọc đúng cho học sinh. Mong thầy cô và các đồng nghiệp góp ý và bổ sung để nâng cao chất lượng giờ dạy tập đọc ở tiểu học nói chung và dạy học môn tập đọc lớp một nói riêng. Xin chân thành cảm ơn./. Cửa Việt, Tháng 3 năm 2010. Người viết Trần Thị Quýt Lời cảm ơn Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu Trường Tiểu học Thị Trấn Cửa Việt cùng các thầy cô giáo trong hội đồng sư phạm và cô giáo : Hoàng Thị Tú Lệ chủ nhiệm lớp 1A,Cô giáo Võ Thị Thơi chủ nhiệm lớp 1B và đồng nghiệp đã giúp đỡ tôi thợc hiện được việc làm mới này. Tài liệu tham khảo 1. Lê Phương Nga – Nguyễn Trí : Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở tiểu học – NXB Đại học Quốc gia Hà Nội - 1999. 2. Lê Phương Nga: Dạy tập đọc ở tiểu học – NXB Giáo dục. 3 Đặng Thị Lanh – Hoàng Hoà Bình – Nguyễn Thị Hạnh – Lê Thị Tuyết Mai – Nguyễn Trí: Tiếng Việt 1 - tập 2 – sách giáo viên. 4. Đặng Thị Lanh – Hoàng Hoà Bình – Hoàng Cao Cương – Trần Thị Minh Phương – Nguyễn Trí: Tiếng Việt 1 - tập 2 5. Nguyễn Trại – Lê Thị Thu Huyền – Thiết kế bài giảng Tiếng Việt
Tài liệu đính kèm: