Đề thi Phương pháp rèn chữ viết cho học sinh lớp 2

Đề thi Phương pháp rèn chữ viết cho học sinh lớp 2

Phần I: Mở đầu

I/ Lí do chọn đề tài

Chúng ta đang ở trong một thời đại mới, thời đại công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Thời đại thông tin bùng nổ, mọi người thường ngồi với chiếc máy vi tính của mình để soạn thảo một văn bản thay vì cầm bút viết trên giấy. Việc rèn chữ viết của mọi người bị chìm quên vào quên lãng. Ở trong trường Tiểu học cũng vậy, trong những năm học gần đây, học sinh viết chữ xấu là tình trạng đáng báo động. Hiện nay, HS lựa chọn đủ các loại bút để viết. Đặc biệt, HS rất yêu thích với chiếc bút bi của mình hơn là những loại bút chấm mực như ngày xưa. Mặt khác, chữ viết của khá nhiều GV chưa đúng quy định cũng ảnh hưởng rất nhiều đến việc rèn chữ viết của HS. Mỗi thầy, cô giáo được xem như là một tấm gương phản chiếu để HS soi rọi vào đó. Lứa tuổi của HS Tiểu học hay “bắt chước” nên GV viết như thế nào thì HS viết như thế đó. Đặc biệt là lứa tuổi HS Tiểu học.

Trẻ em đến trường là để được học đọc, học viết. Nếu phân môn Tập đọc – Học vần giúp trẻ biết đọc thông thì phân môn Tập viết sẽ giúp các em viết thạo. Đọc thông, viết thạo sẽ giúp trẻ tiếp thu bài nhanh hơn, học tốt hơn.

Ông cha ta thường nói: “Nét chữ, nết người”. Chữ viết phần nào đó biểu hiện tính cách của con người. Vì vậy có thể thấy việc tập viết không chỉ góp phần vào việc rèn luyện kĩ năng viết chữ của học sinh mà còn góp phần vào việc giáo dục cái đẹp và hình thành những đức tính tốt cho các em. Đúng như Cố vấn Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã phát biểu: “Chữ viết cũng là một sự biểu hiện của nết người. Dạy cho học sinh viết đúng, viết cẩn thận, viết đẹp là góp phần rèn luyện cho các em tính cẩn thận, tính kỉ luật, lòng tự trọng đối với mình cũng như đối với thầy và bạn đọc bài, đọc vở của mình”.

Thật vậy, nhìn trang vở của HS với những dòng chữ đều tăm tắp, sạch sẽ thì cả cha mẹ và thầy cô đều dấy lên một niềm vui. Chúng ta như đặt niềm tin vào tương lai con trẻ.

Việc rèn chữ viết cho HS còn là môi trường quan trọng bồi dưỡng cho trẻ những phẩm chất tốt như: tính cẩn thận, tinh thần kỉ luật và óc thẩm mĩ. Nhưng muốn viết thạo, trẻ phải gắng công khổ luyện dưới sự dìu dắt tận tình của các thầy giáo, cô giáo.

Xuất phát từ những vấn đề trên và qua thực tế giảng dạy, tôi tiến hành thực hiện đề tài: “Ph­ơng pháp rèn chữ viết cho học sinh líp 2” nhằm giúp các em viết đúng, ngay ngắn và đẹp, góp phần thực hiện tốt phong trào “Vở sạch, chữ đẹp” trong học sinh Tiểu học.

Đề tài được thực hiện trên học sinh lớp 2 trong năm học 2012- 2013.

 

doc 15 trang Người đăng buihue123 Lượt xem 664Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem tài liệu "Đề thi Phương pháp rèn chữ viết cho học sinh lớp 2", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PhÇn I: Më ®Çu
I/ LÝ do chän ®Ò tµi
Chúng ta đang ở trong một thời đại mới, thời đại công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Thời đại thông tin bùng nổ, mọi người thường ngồi với chiếc máy vi tính của mình để soạn thảo một văn bản thay vì cầm bút viết trên giấy. Việc rèn chữ viết của mọi người bị chìm quên vào quên lãng. Ở trong trường Tiểu học cũng vậy, trong những năm học gần đây, học sinh viết chữ xấu là tình trạng đáng báo động. Hiện nay, HS lựa chọn đủ các loại bút để viết. Đặc biệt, HS rất yêu thích với chiếc bút bi của mình hơn là những loại bút chấm mực như ngày xưa. Mặt khác, chữ viết của khá nhiều GV chưa đúng quy định cũng ảnh hưởng rất nhiều đến việc rèn chữ viết của HS. Mỗi thầy, cô giáo được xem như là một tấm gương phản chiếu để HS soi rọi vào đó. Lứa tuổi của HS Tiểu học hay “bắt chước” nên GV viết như thế nào thì HS viết như thế đó. Đặc biệt là lứa tuổi HS Tiểu học. 
Trẻ em đến trường là để được học đọc, học viết. Nếu phân môn Tập đọc – Học vần giúp trẻ biết đọc thông thì phân môn Tập viết sẽ giúp các em viết thạo. Đọc thông, viết thạo sẽ giúp trẻ tiếp thu bài nhanh hơn, học tốt hơn. 
Ông cha ta thường nói: “Nét chữ, nết người”. Chữ viết phần nào đó biểu hiện tính cách của con người. Vì vậy có thể thấy việc tập viết không chỉ góp phần vào việc rèn luyện kĩ năng viết chữ của học sinh mà còn góp phần vào việc giáo dục cái đẹp và hình thành những đức tính tốt cho các em. Đúng như Cố vấn Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã phát biểu: “Chữ viết cũng là một sự biểu hiện của nết người. Dạy cho học sinh viết đúng, viết cẩn thận, viết đẹp là góp phần rèn luyện cho các em tính cẩn thận, tính kỉ luật, lòng tự trọng đối với mình cũng như đối với thầy và bạn đọc bài, đọc vở của mình”.
Thật vậy, nhìn trang vở của HS với những dòng chữ đều tăm tắp, sạch sẽ thì cả cha mẹ và thầy cô đều dấy lên một niềm vui. Chúng ta như đặt niềm tin vào tương lai con trẻ. 
Việc rèn chữ viết cho HS còn là môi trường quan trọng bồi dưỡng cho trẻ những phẩm chất tốt như: tính cẩn thận, tinh thần kỉ luật và óc thẩm mĩ. Nhưng muốn viết thạo, trẻ phải gắng công khổ luyện dưới sự dìu dắt tận tình của các thầy giáo, cô giáo. 
Xuất phát từ những vấn đề trên và qua thực tế giảng dạy, tôi tiến hành thực hiện đề tài: “Ph­¬ng ph¸p rèn chữ viết cho học sinh líp 2” nhằm giúp các em viết đúng, ngay ngắn và đẹp, góp phần thực hiện tốt phong trào “Vở sạch, chữ đẹp” trong học sinh Tiểu học.
Đề tài được thực hiện trên học sinh lớp 2 trong năm học 2012- 2013.
II/ Mục đích nghiên cứu:
 Thực tế hiện nay, chữ viết của các em học sinh tiểu học chưa được đẹp, chưa đúng mẫu, sự liên kết giữa các nét chữ hoặc liên kết giữa các chữ cái chưa chuẩn, tốc độ viết còn chậm, học sinh sử dụng nhiều loại bút - nhiều màu mực để viết bài nên còn hạn chế trong việc giữ gìn “vở sạch - viết chữ đẹp”. Đây là một mảng quan trọng có ảnh hưởng lớn đến chất lượng học sinh và được các trường quan tâm. Nâng cao chất lượng giờ dạy để học sinh viết đúng, viết nhanh, viết đẹp thì phong trào “vở sạch - chữ đẹp” mới có chất lượng.
	Trong ngôn ngữ viết có chức năng giao tiếp và được quy định thống nhất. Mặc dù xác định được tầm quan trọng như vậy nhưng thực tế cho thấy phân môn tập viết trong trường tiểu học còn chưa được coi trọng. Sách giáo viên, tài liệu tham khảo chưa cụ thể, rõ ràng như những môn học khác nên việc dạy phân môn tập viết còn hạn chế. Qua thăm lớp, dự giờ ta thấy có giáo viên còn chưa nắm vững tên gọi các nét cơ bản để hướng dẫn học sinh.
III/ §èi t­îng, ph¹m vi nghiªn cøu
- §èi t­îng: C¸c bµi tËp viÕt trong ch­¬ng tr×nh líp 2
- Ph¹m vi: ChØ ®Ò ra mét sè ph­¬ng ph¸p b­íc ®µu h­íng dÉn häc sinh rÌn ch÷ viÕt.
IV/ Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp điều tra.
Phương pháp phân tích, tổng hợp.
Phương pháp quan sát
Ph­¬ng ph¸p ph©n lo¹i.
Ph­¬ng ph¸p thö nghiÖm.
 PhÇn II – NéI Dung
Ch­¬ng i: c¬ së lÝ luËn cña ®Ò tµi
i/ Vµi nÐt chung vÒ rÌn ch÷ viÕt trong ph©n m«n tËp viÕt.
 Tập viết là một trong những phân môn có tầm quan trọng đặc biệt ở tiểu học, nhất là đối với các lớp đầu cấp. Phân môn tập viết trang bị cho học sinh bộ chữ La Tinh và những yêu cầu về kỹ thuật để sử dụng bộ chữ cái này trong học tập và giao tiếp. Với ý nghĩa này, tập viết không những có quan hệ mật thiết tới chất lượng học tập của các môn học khác mà còn góp phần rèn luyện một trong những kỹ năng hàng đầu của việc học Tiếng Việt trong nhà trường – kỹ năng chữ viết. Nếu viết đúng, viết đẹp, tốc độ nhanh thì học sinh có điều kiện ghi chép bài học tốt, nhờ vậy kết quả học tập sẽ cao hơn. Viết xấu, chậm sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng học tập.
	Mặt khác tập viết là phân môn có tính chất thực hành. Tính chất thực hành có mục đích của việc dạy học tập viết cũng góp phần khẳng định vị trí quan trọng của phân môn này ở trường tiểu học.
	Ngoài ra tập viết còn góp phần quan trọng vào việc rèn luyện cho học sinh những phẩm chất đạo đức tốt như tính cẩn thận, tính kỷ luật và khiếu thẩm mỹ.
	Đặc biệt theo chương trình sách giáo khoa mới ở tiểu học và theo quyết định số 31/2002/QĐ-BGD&ĐT của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và đào tạo về mẫu chữ viết trong trường tiểu học thì tính chất thực hành của phân môn tập viết càng thể hiện rõ. Qua việc thực hành của học sinh, người giáo viên lại một lần nữa rèn cho học sinh tính cẩn thận và khiếu thẩm mỹ của các em.
	Trong một năm học, học sinh được học 35 tiết Tập viết, như vậy mỗi tuần có 1 tiết tập viết. Ở lớp 2 học sinh học viết các chữ cái viết hoa, tiếp tục luyện cách viết các chữ viết thường và tập nối nét chữ từ chữ hoa sang chữ thường. Trong mỗi tiết tập viết, học sinh được hướng dẫn và tập viết từng chữ cái viết hoa, sau đó tập viết cụm từ hoặc câu ứng dụng (có nội dung phù hợp với chủ điểm và tương đối dễ hiểu) có chữ hoa ấy. Số lượng, nội dung và hình thức như vậy là phù hợp với học sinh lớp 2. Tuy nhiên, với học sinh lớp 2 học môn tập viết để viết đẹp là rất khó vì ở lớp 1 các em mới làm quen với chữ hoa qua hình thức tập tô trong giai đoạn luyện tập tổng hợp ở học kỳ 2. Chính vì vậy khi viết chính tả, chữ hoa của các em mới dừng ở mức độ gần giống với hình dáng theo mẫu chữ qui định, một số em còn thao tác ngược hoàn toàn với qui trình viết hoặc nhấc bút tuỳ tiện không biết đâu là điểm nhấn của con chữ để tạo độ mềm mại, đẹp. Còn một lý do nữa là trong giờ dạy tập viết, còn nhiều giáo viên chưa chú ý và coi trọng tính luyện tập, thực hành của học sinh, mà đi sâu quá vào việc giải thích qui trình viết chữ, nên học sinh không được luyện viết nhiều và luyện viết còn mang tính hình thức. Vì vậy, để học sinh lớp 2 viết đúng, tiến tới viết đẹp là mối quan tâm và trăn trở rất lớn của tôi cũng như các đồng nghiệp.
II/ ®Æc ®iÓm t©m lÝ 
Tâm lý tình cảm có ảnh hưởng rất lớn tới quá trình nhận thức. Nếu trẻ được viết trong tư thế thoải mái, tâm trạng phấn khởi thì dễ có kết quả tốt. Ngược lại, nếu trẻ buồn phiền thì chữ viết cũng bị ảnh hưởng.
a) Lý thuyết hoạt động:
 Để viết được chữ thì học sinh phải hoạt động (phải tiêu hao năng lượng của thần kinh và bắp thịt). Hoạt động viết của học sinh được thực hiện qua thao tác sau:
- Làm quen với đối tượng: Khi giáo viên hướng dẫn thì trẻ sẽ tri giác bằng mắt, tai và tay sẽ làm theo.
- Nói điều mình tri giác được, vừa nói vừa đưa tay theo các đường nét của chữ cái để nhấn mạnh cách viết đồng thời nhận ra tên gọi, hình dáng chữ đó.
- Nói thầm kiến thức mới thu nhập được để tái hiện hình ảnh đó trong óc trước khi viết.
- Làm thử: Hình ảnh đã có trong óc cần được thể hiện trên bảng, trên giấy bằng các dụng cụ như bút bảng, phấn, bút mực.
- Kiểm tra lại kết quả so với mẫu để rút kinh nghiệm cho lần sau.
b) Đặc điểm đôi tay trẻ khi viết:
- Tay trực tiếp điều khiển quá trình viết của trẻ. Các cơ và xương bàn tay của trẻ đang độ phát triển nhiều chỗ còn sụn nên cử động các ngón tay vụng về, chóng mệt mỏi.
- Khi cầm bút các em có tâm lý sợ rơi. Điều này gây nên một phản ứng tự nhiên là các em cầm bút chặt, các cơ tay cứng nên khó di chuyển.
- Muốn có thói quen viết chữ nhẹ nhàng, thoải mái, trước hết học sinh phải biết kỹ thuật cầm bút bằng ba ngón tay (ngón cái, ngón trỏ, ngón giữa), bàn tay phải có điểm tựa là mép cùi của bàn tay. Cầm bút phải tự nhiên, đừng quá chặt sẽ khó vận động, nếu lỏng quá sẽ không điều khiển được bút.
- Nếu các em cầm bút sai kỹ thuật bằng 4 đến 5 ngón tay, khi viết vận động cổ tay, cánh tay thì các em sẽ mau mệt mỏi, sức chú ý kém, kết quả chữ viết không đúng và nhanh được.
c) Đặc điểm đôi mắt trẻ khi viết:
- Trẻ tiếp thu hình ảnh chữ viết qua mắt nhìn. Vì vậy, nếu chữ viết được trình bày với kích thước quá nhỏ hoặc ánh sáng kém thì các em phải cúi sát xuống để nhìn cho rõ chữ, từ đó dẫn đến cận thị.
- Trong thời gian đầu, có thể các em nhận ra đúng hình chữ nhưng bàn tay chưa ghi lại đầy đủ hình dáng của mẫu chữ. Chỉ sau khi luyện tập, số lần nhắc đi nhắc lại nhiều hay ít tuỳ theo từng học sinh, thì
Ch­¬ng ii: kh¶o s¸t c¸c bµi tËp viÕt trong s¸ch tiÕng viÖt 2
i/NhËn xÐt chung 
Trong một năm học, học sinh được học 35 tiết Tập viết, như vậy mỗi tuần có 1 tiết tập viết. Ở lớp 2 học sinh học viết các chữ cái viết hoa, tiếp tục luyện cách viết các chữ viết thường và tập nối nét chữ từ chữ hoa sang chữ thường. Trong mỗi tiết tập viết, học sinh được hướng dẫn và tập viết từng chữ cái viết hoa, sau đó tập viết cụm từ hoặc câu ứng dụng (có nội dung phù hợp với chủ điểm và tương đối dễ hiểu) có chữ hoa ấy. Số lượng, nội dung và hình thức như vậy là phù hợp với học sinh lớp 2. Tuy nhiên, với học sinh lớp 2 học môn tập viết để viết đẹp là rất khó vì ở lớp 1 các em mới làm quen với chữ hoa qua hình thức tập tô trong giai đoạn luyện tập tổng hợp ở học kỳ 2. Chính vì vậy khi viết chính tả, chữ hoa của các em mới dừng ở mức độ gần giống với hình dáng theo mẫu chữ qui định, một số em còn thao tác ngược hoàn toàn với qui trình viết hoặc nhấc bút tuỳ tiện không biết đâu là điểm nhấn của con chữ để tạo độ mềm mại, đẹp. Còn một lý do nữa là trong giờ dạy tập viết, còn nhiều giáo viên chưa chú ý và coi trọng tính luyện tập, thực hành của học sinh, mà đi sâu quá vào việc giải thích qui trình v ... ” cỡ nhỡ, giáo viên yêu cầu học sinh quan sát kỹ chữ viết mẫu trong vở để xác định điểm đặt bút, độ lượn của phần đầu và độ uốn của phần lưng chữ “A”. Sau đó giáo viên yêu cầu học sinh viết từng chữ một, chữ sau rút kinh nghiệm của chữ trước để viết đẹp hơn. Cũng hướng dẫn tương tự với dòng chữ “A” cỡ nhỏ (học sinh viết từng dòng một).
	Trước khi học sinh luyện viết chữ ghi từ ứng dụng “Anh em thuận hòa”, giáo viên yêu cầu học sinh quan sát kỹ cách nối từng chữ, học sinh cũng viết từng chữ một để khắc sâu trí nhớ và rút kinh nghiệm cho chữ sau.
Ở dòng đầu của chữ ghi cụm từ ứng dụng “Anh em thuận hòa” giáo viên cần cho học sinh nhắc lại khoảng cách giữa các chữ trước khi luyện viết.
	Việc đảm bảo tốt các công việc trên sẽ giúp các em viết tốt hơn ở những dòng sau.
Hình thức thứ năm: 	Luyện tập viết chữ hoa khi học các môn học khác
Ngoài các giờ tập viết, giáo viên còn phải luôn nhắc nhở học sinh tập viết ở các môn (phân môn) khác. Có như thế việc luyện tập viết chữ mới được củng cố đồng bộ thường xuyên, nhằm nâng cao chất lượng chữ viết và hình thành ở học sinh những phẩm chất tốt như tính kiên trì, cẩn thận, khiếu thẩm mỹ. Việc làm này đòi hỏi ở giáo viên ngoài những hiểu biết về chuyên môn còn cần sự kiên trì, tính cẩn thận và lòng yêu nghề mến trẻ.
3/ Các phương pháp thử nghiệm: 
3.1 Tổ chức nhóm: 
          Việc phân chia nhóm là để tạo mối quan hệ tình cảm bạn bè với nhau, cùng giúp đỡ nhau trong học tập và nhằm để cho các em thi đua lẫn nhau. Ngoài việc hướng dẫn của giáo viên, tôi giao trách nhiệm cho những em viết chữ đẹp hướng dẫn và giúp đỡ các bạn hằng ngày từ việc tô các nét cơ bản đến tô chữ, tập viết các chữ cái, đến từ ứng dụng và viết câu ứng dụng vào những giờ tập viết, giờ chuyển tiết, những buổi sinh hoạt tập thể và có lúc luyện cả vào những buổi học 4 tiết, những buổi học gộp nội dung bài lại với nhau, thực hiện theo việc khoán chương trình của Bộ cho mỗi giáo viên. 
3.2. Thi đua giữa các nhóm: 
          Trong những giờ tập viết, tôi chia lớp thành 4 nhóm nhỏ và đặt tên nhóm theo tên các con vật, đồ vật như: nhóm Thỏ Ngọc, nhóm Sao Sáng Tôi cho các nhóm thi đua với nhau, nhóm nào có nhiều bài viết đẹp thì nhóm đó được nhận cờ thi đua của lớp. 
          Tôi cho các nhóm nhận xét bài viết của các bạn trong nhóm hoặc ở các nhóm khác. Việc làm này giúp các em nhìn thấy được mặt hạn chế của mình qua nhận xét của các bạn. Từ đó, giúp các em tham gia sửa chữa những chỗ viết sai. Như vậy thông qua việc học nhóm, không những giải quyết được rèn chữ viết cho các em mà còn tạo điểu kiện cho các em thi đua học tập với nhau. Các em biết tự đánh giá mình và tự đánh giá lẫn nhau. 
3.3 Trò chơi học tập: 
          Việc xây dựng trò chơi học tập trong giờ tập viết là một hình thức tổ chức lớp học, hoạt động dưới dạng: “Học mà chơi – chơi mà học”. Trong trò chơi học tập, giáo viên giúp các em củng cố lại những kiến thức rèn kỹ năng thực hành, tạo được mối quan hệ đoàn kết trong học tập. 
          Ví dụ: Giáo viên có thể dùng các nét rời, rồi cho học sinh thi ghép các nét chữ với nhau để tạo thành những chữ cái đã học hoặc cho học sinh thi viết lại những chữ cái trên bảng lớp. 
          Để ghép được chữ A (kiểu 1), giáo viên chuẩn bị các tấm bìa, mỗi bộ 3 tấm bìa theo 3 nét của chữ A: nét móc ngược trái, nét móc ngược phải và nét lượn ngang Sau đó, giáo viên gọi 4 em có chữ viết kém lên thi ghép chữ với nhau. 
          Cách chơi: 4 em lên bảng đứng thành hàng ngang. Giáo viên phát cho mỗi em một bộ các nét chữ A. Giáo viên hô “bắt đầu” thì mỗi em tự đính các nét chữ A rời rồi ghép lại với nhau để thành chữ A hoàn chỉnh. Em nào ghép đúng và nhanh thì được cả lớp vỗ tay tuyên dương. 
          Như vậy, khi vận dụng trò chơi, giáo viên cần lựa chọn những hình thức sao cho phù hợp với học sinh của lớp mình để đem lại hiệu quả cao trong quá trình dạy học. 
3.4. Nhận xét và khen thưởng: 
3.4.1. Nhận xét: 
          Trong mỗi giờ dạy tập viết, những em nào có chữ viết dần tiến bộ, chữ viết rõ nét hơn, kể cả việc ghi chữ trong vở, trên bảng lớp hoặc trên bảng con, tôi nhận xét: “So với trước, chữ viết của các em đúng mẫu và đều nét hơn rồi đó. Các em cố gắng hơn nữa nhé!”. Khi ấy, tôi thấy trong ánh mắt các em đang sáng lên một niềm vui. Điều đó, tạo được niềm tin và sự hứng thú trong học tập của các em. 
3.4.2. Khen thưởng: 
          Sau mỗi giờ tập viết, tôi tổng kết nhóm nào có số lượng bạn viết chữ đẹp nhiều nhất thì nhóm đó được cả lớp vỗ tay tán thưởng và cuối tuần được xếp loại thi đua cho tổ. 
3.5. Sử dụng đồ dùng dạy học: 
          Việc sử dụng đồ dùng dạy học là một yếu tố rất quan trọng trong quá trình dạy học, nó không chỉ thực hiện chức năng minh hoạ mà còn là nguồn tri thức để học sinh khám phá và phát huy tính tích cực học tập cho học sinh, đạt được hiệu quả cao trong giờ học. Mỗi bài tập viết đều có mẫu chữ in sẵn (Mẫu chữ Bộ Giáo dục và Đào tạo đã Ban hành), nhằm giúp học sinh quan sát, nhận biết, phân tích hình dáng, cấu tạo của chữ như: Chữ có độ cao mấy li? Tương đương với bao nhiêu dòng kẻ? Chữ được viết mấy nét? Là những nét gì? Các nét đó như thế nào? Có hình dạng ra sao? Các nét nối với nhau ra sao? Khi viết đặt bút ở dòng kẻ nào? Dừng bút ở dòng kẻ nào?... Từ đó, giúp học sinh phát hiện được sự giống nhau và khác nhau giữa chữ đang viết với chữ đã viết. 
          Ví dụ: Chữ Q: nét 1 giống chữ O nhưng có nét lượn ngang giống như một dấu ngã lớn. 
          Giáo viên củng cố lại những chữ khó viết mà học sinh thường viết sai. 
          Ví dụ: Những chữ có vòng xoắn, nét khuyết, nét cong. 
          Chữ C và chữ E có nét cong dưới giống nhau, nhưng nét cong dưới của chữ C có độ cao 1.25 đơn vị; còn nét cong dưới của chữ E có độ cao 1 đơn vị. 
          Ngoài mẫu chữ in sẵn, giáo viên còn chuẩn bị mẫu chữ cỡ nhỏ trên giấy khổ to, giáo viên viết sẵn: từ ứng dụng, câu ứng dụng giúp cho học sinh viết đúng. Giáo viên làm sẵn các bộ nét chữ rời của các chữ cái để cho học sinh chơi trò chơi nhằm giúp cho học sinh củng cố lại cấu tạo của chữ cái. 
          Như vậy, việc sử dụng đồ dùng dạy học giúp cho học sinh hình thành kỹ năng viết đúng mà còn có khả năng phân tích hình dáng, kích thước và các nét cơ bản về cấu tạo chữ cái cần viết trong từng đơn vị bài học. 
3.6. Vai trò hoạt động của giáo viên: 
          Trong giờ dạy tập viết, vai trò của giáo viên rất quan trọng. Mỗi thầy, cô giáo được xem như là một tấm gương để cho học sinh noi theo. Nếu giáo viên viết như thế nào thì học sinh viết như thế đó. Chính vì vậy, người giáo viên phải có đức tính kiên trì, tận tình. Sự nhiệt tâm chi đáo của giáo viên là một trong những yếu tố đảm bảo sự thnàh công của giờ dạy tập viết. Chữ viết của giáo viên được xem như là một bản chính giúp cho học sinh “bắt chước” để luyện viết. Việc viết mẫu của giáo viên là một thao tác trực quan trên bảng lớp, giúp học sinh nắm bắt được quy trình viết từng nét của từng chữ cái. Do vậy, giáo viên phải viết chậm, đúng theo quy tắc viết chữ. Khi viết mẫu, giáo viên cần tạo điều kiện để cho học sinh nhìn thấy tay của giáo viên viết từng nét chữ. 
          Khi viết, giáo viên nên kết hợp giảng giải, phân tích: đưa bút như thế nào? Thứ tự các nét viết ra sao? Giáo viên cũng cần chú ý phân tích cả cách viết dấu phụ và dấu thanh. 
6. Kết quả đạt được: 
          Trải qua một thời gian thử nghiệm, tôi nhận thấy không khí học tập của lớp sôi nổi hẳn lên. Chữ viết của các em có nhiều tiến bộ rõ rệt. Đến cuối học kỳ I năm học 2012 - 2013, số lượng học sinh đạt điểm Giữ vở sạch – Viết chữ đẹp được nâng lên dần. Ban đầu từ 24 em, giờ chỉ còn 4 em chữ viết còn hơi nguệch ngoạc. Qua kết quả trên cho thấy, đến giờ học tập viết học sinh rất thích thú học tập, nhât là được thi đua theo tổ, nhóm. Chính điều đó thúc đẩy chất lượng học tập của học sinh được nâng lên. 
          *Kết quả cụ thể: 
          Số lượng học sinh được công nhận Giữ vở sạch – Viết chữ đẹp như sau: 
          Sĩ số: 38 
Đầu năm
Cuối học kỳ I
SL
TL
SL
TL
14
36.8%
34
89.5%
PhÇn iii: kÕt luËn
          Đúc kết quá trình thực hiện rèn chữ viết cho học sinh, tôi rút ra được những bài học kinh nghiệm như sau: 
          1/ Xác định mục tiêu, nội dung tối thiểu của việc rèn chữ viết cho học sinh. 
          2/ Phân loại mức độ chữ viết của các em để lập kế hoạch xây dựng chương trình rèn chữ viết cho các em. 
          3/ Tiến hành thử nghiệm một vài em, sau đó tiến hành đại trà cho cả lớp theo các bước sau: 
          - Hình thành và xây dựng các biểu tượng về chữ viết, giúp các em hiểu vả ghi nhớ được hình dáng, kích thước, quy trình viết từng chữ cái. Các hiểu biết này giúp các em viết chữ một cách tự giác. Nhờ vậy, kết quả đạt được sẽ nhanh hơn và chắc chắn hơn. 
          - Củng cố, hoàn thiện các biểu tượng về chữ viết thông qua các hình thức luyện tập viết chữ: luyện viết các chữ cái, liên kết các chữ cái để luyện viết từ, cao hơn là viết câu ứng dụng, luyện viết đoạn văn 
          - Phân công cho học sinh viết chữ đẹp kèm căp, giúp đỡ những học sinh có chữ viết chưa chuẩn. 
          - Thi đua viết chữ đẹp giữa các nhóm, tạo sự hứng thú học tập cho các em. 
          - Xây dựng một số trò chơi học tập như: ghép nét các chữ cái, thi viết các chữ cái đã học để cho học sinh củng cố lại cấu tạo các chữ cái và cách viết các chữ cái. 
          - Kịp thời động viên, khen thưởng những học sinh về sự tiến bộ của các em, dù đó chỉ là một sự tiến bộ nhỏ, tạo cho các em có một niềm tin và hứng thú hơn trong học tập. 
4/ Mỗi giáo viên phải có đức tính kiên trì, tận tình. Sự nhiệt tâm, chu đáo của giáo viên là một trong những yếu tố đảm bảo sự thành công của một giờ dạy tập viết. Mỗi thầy, cô giáo phải ra sức rèn luyện chữ viết của mình để làm gương cho học sinh noi theo. 
          *Kết quả việc rèn luyện chữ viết cho học sinh không phải ngày một, ngày hai mà có được. Mà đó là kết quả của quá trình dày công và khổ luyện của cả thầy và trò, dưới sự dìu dắt, chăm sóc tận tình của các thầy giáo, cô giáo.
 Th¸i B×nh, th¸ng 10 n¨m 2012
 Người viết 
 Ph¹m ThÞ Minh

Tài liệu đính kèm:

  • docphuong phap ren chu o hoc sinh tieu hoc.doc