Việt Nam chúng ta đang thực hiện công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước với mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Trong công cuộc kiến thiết đó nước nhà rất cần những con người lao động có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ vững vàng, thực sự uyên bác về khoa học, tinh thông, lão luyện về khoa học kĩ thuật để đủ sức khám phá, đề xuất, sáng tạo cái mới, cải thiện những cái đã có, tạo ra bước ngoặt về sự phát triển kinh tế xã hội. Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước ta đã chỉ rõ: “Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu” với mục tiêu: “Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài”. Hiện nay chúng ta đang thực hiện đổi mới nhiều vấn đề liên quan đến dạy và học với mục đích là nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh. Đặc biệt đối với bậc Tiểu học được xác định “là bậc học nền tảng trong hệ thống giáo dục quốc dân” (Điều 2 - Luật giáo dục). với mục tiêu cơ bản là: “nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất và thẩm mỹ và các kĩ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học trung học cơ sở”. (Điều 23 - Luật Giáo dục) Mục tiêu đó được cụ thể hóa trong từng môn học, từng lớp học, từng hoạt động của cả bậc học
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM “MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KỸ NĂNG GIẢI TOÁN CÓ LỜI VĂN CHO HỌC SINH LỚP 5 ” Quảng Bình, tháng 2 năm 2013 CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM “MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KỸ NĂNG GIẢI TOÁN CÓ LỜI VĂN CHO HỌC SINH LỚP 5 ” Họ và tên: Nguyễn Thị Hồng Liên Chức vụ: Giáo viên Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Quảng Tùng Quảng Bình, tháng 2 năm 2013 I. PHẦN MỞ ĐẦU 1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI: 1.1. Cơ sở lí luận: Việt Nam chúng ta đang thực hiện công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước với mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Trong công cuộc kiến thiết đó nước nhà rất cần những con người lao động có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ vững vàng, thực sự uyên bác về khoa học, tinh thông, lão luyện về khoa học kĩ thuật để đủ sức khám phá, đề xuất, sáng tạo cái mới, cải thiện những cái đã có, tạo ra bước ngoặt về sự phát triển kinh tế xã hội. Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước ta đã chỉ rõ: “Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu” với mục tiêu: “Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài”. Hiện nay chúng ta đang thực hiện đổi mới nhiều vấn đề liên quan đến dạy và học với mục đích là nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh. Đặc biệt đối với bậc Tiểu học được xác định “là bậc học nền tảng trong hệ thống giáo dục quốc dân” (Điều 2 - Luật giáo dục). với mục tiêu cơ bản là: “nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất và thẩm mỹ và các kĩ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học trung học cơ sở”. (Điều 23 - Luật Giáo dục) Mục tiêu đó được cụ thể hóa trong từng môn học, từng lớp học, từng hoạt động của cả bậc học. Cùng với các môn học khác, môn Toán của tiểu học có vị trí và tầm quan trọng rất lớn. Môn Toán là một môn học được xem như công cụ để học các môn học khác, là "chìa khóa" mở cửa cho tất cả các ngành khoa học khác, nó là công cụ cần thiết của người lao động trong thời đại mới. Trên cơ sở cung cấp những tri thức khoa học ban đầu về số học, các số tự nhiên, các số thập phân, các đại lượng cơ bản, giải toán có lời văn ứng dụng thiết thực trong đời sống và một số yếu tố hình học đơn giản. Môn Toán ở tiểu học bước đầu hình thành và phát triển năng lực trừu tượng hóa, khái quát hóa, kích thích trí tưởng tượng, gây hứng thú học tập toán, phát triển hợp lý khả năng suy luận và biết diễn đạt đúng bằng lời, bằng viết, các suy luận đơn giản, góp phần rèn luyện phương pháp học tập và làm việc khoa học, linh hoạt sáng tạo cho học sinh tiểu học. Trong dạy - học toán ở tiểu học, việc giải toán có lời văn chiếm một vị trí quan trọng. Bởi học sinh phải tư duy một cách tích cực và linh hoạt, huy động tích cực các kiến thức và khả năng đã có vào tình huống khác nhau, trong nhiều trường hợp phải biết phát hiện những dữ kiện hay điều kiện chưa được nêu ra một cách tường minh và trong chừng mực nào đó, phải biết suy nghĩ năng động, sáng tạo. Vì vậy có thể coi giải toán có lời văn là một trong những biểu hiện năng động nhất cho hoạt động trí tuệ của học sinh. 1.2. Cơ sở thực tiễn: Nhiều năm qua tôi được phân công giảng dạy lớp 5, bản thân tôi nhận thấy: Trình độ nhận thức của học sinh không đồng đều, yêu cầu đặt ra khi giải các bài toán có lời văn cao hơn những lớp trước, các em phải đọc nhiều, viết nhiều, bài làm phải trả lời chính xác với phép tính, với các yêu cầu của bài toán đưa ra, nên thường vướng mắc về vấn đề trình bày bài giải: sai sót do viết không đúng chính tả hoặc viết thiếu, viết từ thừa. Một sai sót đáng kể khác là học sinh thường không chú ý phân tích theo các điều kiện của bài toán nên đã lựa chọn sai phép tính. Qua thực tế giảng dạy cho HS lớp 5, có khoảng 70% - 85% học sinh chưa thành thạo về giải toán có lời văn. Với những lý do đó, trong học sinh tiểu học nói chung và học sinh lớp năm nói riêng, việc học toán và giải toán có lời văn rất quan trọng và rất cần thiết. Để thực hiện tốt mục tiêu đó, giáo viên cần phải nghiên cứu, tìm biện pháp giảng dạy thích hợp, giúp các em giải bài toán một cách vững vàng, hiểu sâu được bản chất của vấn đề cần tìm, mặt khác giúp các em có phương pháp suy luận toán logic thông qua cách trình bày, lời giải đúng, ngắn gọn, sáng tạo trong cách thực hiện. Từ đó giúp các em hứng thú, say mê học toán. Từ những căn cứ đó tôi đã chọn đề tài "Một số biện pháp rèn kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 5" để nghiên cứu với mục đích xuất một số ý kiến góp phần nâng cao chất lượng dạy học giải toán có lời văn nói riêng và môn toán lớp 5 nói chung. 2. PHẠM VI ÁP DỤNG SÁNG KIẾN: - Đối tượng: Học sinh lớp 5. - Thời gian áp dụng: Năm học 2011 - 2012 và năm học 2012 - 2013 (Trong học kì I). - Giả thuyết khoa học: Nếu sáng kiến này áp dụng thành công thì sẽ góp phần nâng cao hiệu quả việc dạy học giải toán có lời văn cho học sinh lớp 5, góp phần nâng cao hiệu quả chất lượng giáo dục học sinh trong nhà trường. Nếu thành công, rất mong được áp dụng cho trong tất cả các lớp ở trường tôi và các trường bạn. II. PHẦN NỘI DUNG 1. THỰC TRẠNG CỦA NỘI DUNG CẦN NGHIÊN CỨU: 1.1. Một số đặc điểm tình hình nhà trường, giáo viên và học sinh: * Thuận lợi: - Trường có một khu vực chính 16 lớp và một khu vực lẻ có 2 lớp. Nhìn chung cơ sở vật chất, khuôn viên, các điều kiện và phương tiện dạy học ngày càng được cải tạo, tăng trưởng, từng bước đáp ứng được nhu cầu giảng dạy, giáo dục hiện nay. - Trường là một đơn vị có thành tích đáng tự hào trong công tác giáo dục - đào tạo trong mấy năm gần đây. Từ năm đến ...năm... liên tục đạt danh hiệu trưưòng tiên tiến cấp huyện và được công nhận đạt chuẩn quốc gia mức I năm 20.. và được kiểm tra công nhận lại vào tháng năm 2008. - Tập thể giáo viên trường tôi là một tập thể sư phạm vững mạnh và đoàn kết, thực sự tâm huyết với nghề, có tinh thần trách nhiệm cao, tất cả vì học sinh thân yêu. Tổng số cán bộ giáo viên là 30 người đều đạt chuẩn và trên chuẩn. - Đa số các em là con em nông dân, thật thà chất phác và chăm học. - Nhận thức của địa phương, phụ huynh về giáo dục ngày càng đổi mới. * Khó khăn: - Mấy năm học gần đây tôi được phân công dạy lớp 5. Học sinh lớp tôi phần lớn là con nông dân, ngoài việc làm ruộng bố mẹ hay đi làm ăn xa để kiếm thêm thu nhập nên một số em phải ở nhà với ông bà. Điều kiện kinh tế gia đình còn gặp nhiều khó khăn nên các em chưa thực sự được bố mẹ quan tâm đúng mức, tất cả mọi việc học của con đều phó mặc cho nhà trường. Điều đó ảnh hưởng rất lớn đến việc học tập của các em. Nhất là với môn Toán số lượng học sinh yếu còn nhiều, chất lượng học tập chưa cao, có những học sinh không hiểu được đề bài toán nên làm cho có, dẫn đến kết quả của bài toán sai khá nhiều. Để thực hiện được vấn đề này, tôi đã tìm hiểu và nắm rõ tình hình học sinh lớp tôi ngay khi được phân công. Trước tiên tôi xem sổ chủ nhiệm năm học trước đồng thời tôi trao đổi với giáo viên chủ nhiệm năm học trước để nắm rõ hơn. Sau đó tôi cho học sinh kiểm tra lại để phân loại từng đối tượng học sinh. 1.2. Số liệu thống kê: Đầu mỗi năm học tôi luôn tự khảo sát chất lượng môn Toán của lớp mình với kết quả như sau: năm học 2012 - 2013 (vì tỉ lệ học sinh yếu môn Toán chịu ảnh hưởng rất lớn ở phần bài tập giải toán có lời văn). Thời gian khảo sát Tổng số HS Giỏi Khá Trung bình Yếu SL TL SL TL SL TL SL TL Năm học 2011-2012 27 3 8 8 8 Năm học 2011-2012 25 2 8% 7 28% 7 28% 9 36% * Nhận xét: Qua số liệu thống kê cho thấy số học sinh đạt loại giỏi rất ít, số học sinh đạt trung bình và yếu khá cao. Điều đó cho thấy học sinh chưa nắm vững về cách giải toán có lời văn. 1.3. Thực trạng về giải toán có lời văn đối với học sinh lớp 5: Trong mạch kiến thức giải toán có lời văn bao gồm nhiều dạng bài: dạng toán đơn, dạng toán hợp, dạng toán điển hình, dạng toán có nội dung liên quan đến hình học,...Đa số các dạng toán đơn thì HS làm được, song các bài toán từ 2 phép tính trở lên thì đa số học sinh yếu không làm được bởi một số nguyên nhân sau: - Kĩ năng đọc đề, phân tích đề của HS còn hạn chế. Học sinh đọc đề vội vàng, chưa biết tập trung vào những dữ kiện trọng tâm của đề toán không chịu phân tích đề toán khi đọc đề. - Kĩ năng nhận dạng toán, nắm các bước giải trong từng dạng toán còn lúng túng. Khả năng phân tích, tổng hợp, khái quát hoá vấn đề và tư duy của học sinh còn hạn chế khi gặp những bài toán phức tạp. Hầu hết, các em làm theo khuôn mẫu của những dạng bài cụ thể mà các em thường gặp trong sách giáo khoa, khi gặp bài toán đòi hỏi tư duy, suy luận một chút các em không biết cách phân tích dẫn đến lười suy nghĩ. - Chưa biết lập kế hoạch giải bài toán. - Kĩ năng đặt lời giải, kĩ năng tính toán của học sinh còn gặp nhiều khó khăn. Một số em biết tìm ra phép tính đúng nhưng khi đặt lời giải thì còn lúng túng và có khi đặt lời giải cho bài toán chưa hợp lý. - Học sinh chưa được luyện tập thường xuyên, nên thường nhầm lẫn giữa các dạng toán. - Đa số giải toán có lời văn thường tập trung ở các đối tượng học sinh khá giỏi nên thói quen của các đối tượng HS trung bình và yếu là bỏ qua các bài toán giải hoặc làm cho có, không có động não suy nghĩ. Từ thói quen lười suy nghĩ dẫn đến hiệu quả thấp. - Trí nhớ của các em chưa thoát khỏi tư duy cụ thể nên còn ngại khó khi gặp các bài toán phức tạp. Từ đó dẫn đến kết quả học tập của các em chưa cao. - Khi giải xong bài toán, đa số học sinh bỏ qua bước kiểm tra lại bài, dẫn đến nhiều trường hợp sai sót đáng tiếc do tính nhầm, do chủ quan. Ngoài ra, còn có những trường hợp học sinh hiểu bài nhưng còn lúng túng trong cách trình bày nhất là với các bài toán giải có lời văn phức tạp. - Thực tế trong một tiết dạy 35 phút, vừa dạy bài mới, vừa làm bài tập và các bài toán có lời văn thường ở cuối bài nên thời gian để luyện nêu đề, nêu câu trả lời không được nhiều nên học sinh chưa khắc sâu kiến thức, chưa nắm được mẹo để giải bài toán. - Một số học sinh gia đình còn khó khăn nên chưa quan tâm đúng mức đến việc học của con em mình dẫn ... thì học sinh phải nắm vững các quy tắc tính toán. Nhưng trong thực tế ngay cả những học sinh đã nắm vững các quy tắc tính toán vẫn có thể phạm lầm lẫn, sai sót... để tránh được những lầm lẫn, sai sót đáng tiết ấy cần chú ý thử lại sau khi làm xong từng phép tính. Ví dụ: Để kiểm tra xem tỷ số phần trăm của số tiền bán rau và số tiền vốn có đúng là 125% không, các em lấy 125% nhân với số tiền vốn 42.000 đồng. Nếu ra đúng kết quả là số tiền sau khi bán rau là 52.500 đồng thì kết quả tìm được là đúng. Cụ thể: 125/100 x 42.000 = 52.500 đồng. 2. 3. Đảm bảo phát huy tính sáng tạo, chủ động của học sinh khi học giải toán: - Trong quá trình dạy giải toán cho học sinh lớp 5, giáo viên không nên dẫn dắt quá sâu mà nên hướng dẫn tìm hiểu cách giải bằng những câu hỏi khéo léo cho học sinh tự mày mò ra con đường để tìm ra phương pháp giải toán. - Tự sửa bài tập bằng cách đối chiếu với bài của các bạn trong nhóm, bài sửa của lớp. Tự đánh giá bài làm của mình. Biết lắng nghe nhận ra điểm đúng, điểm sai qua bài làm của bạn, biết so sánh và tự sửa được bài làm một cách rõ ràng, sạch đẹp, khoa học. - Học và nắm được các dạng bài, học sinh phải chuẩn bị bài ở nhà chu đáo, thi đua học tập giữa các bạn, các nhóm trong lớp. Nắm chắc các tính chất, các quy tắc đã được học. Biết vận dụng các quy tắc để giải bài một cách có hiệu quả. - Biết tự đặt ra các câu hỏi để nhờ bạn, nhờ cô giáo giải đáp nhằm làm rõ thêm kiến thức bài học. 2.4. Trong tiết học giáo viên cần chú ý đến tất cả các đối tượng học sinh: - Giáo viên phải phân loại được đối tượng học sinh trong lớp, đặc biệt quan tâm đến học sinh yếu kém (chưa thành thạo về kĩ năng giải toán), phải làm cho mọi học sinh trong lớp biết dựa vào đề toán để tóm tắt, phân tích đề một cách chính xác, tìm được cách giải thích hợp. Giáo viên phải nắm được khả năng của từng học sinh, từ đó giúp học sinh phát triển năng lực, sở trường cá nhân. - Trong giờ học giáo viên không nên chú ý đến đối tượng học sinh yếu hoặc chú ý đến học sinh khá giỏi, mà cần có sự chú ý đến cả 3 đối tượng nhằm khắc phục tình trạng nhằm chán, mất hứng thú trong giờ học của mọi đối tượng học sinh vì thấy cô chỉ chỉ chú ý bạn mà không để ý gì đến mình. Nếu trong giờ học giáo viên chỉ chú ý đến một đối tượng thì dần dần chất lượng của lớp sẽ đi xuống hoặc là đối tượng học sinh yếu ngày càng yếu, hoặc là đồi tượng học sinh khá giỏi tụt dần dẫn đến không bồi dưỡng được mũi nhọn trong lớp. Vì vậy trong tiết học giáo viên cần quan tâm đến cả ba đối tượng. Do đó, giáo viên phải khéo léo để làm sao cho mọi học sinh trong lớp đề thấy mình được giáo viên quan tâm. Chỉ có như vậy, tiết học mới đạt hiệu quả cao. Chẳng hạn, một bài toán giáo viên cùng cho cả lớp tìm hiểu, tóm tắt, xây dựng kế hoạch giải. Để những học sinh khá giỏi làm xong cách 1 thì các em suy nghĩ cách giải 2, 3. làm như vậy thì mới phát huy hết khả năng của từng em, tạo không khí học tập cho cả lớp tránh trường hợp học sinh khá giỏi làm xong ngồi chơi ảnh hưởng đến các bạn khác trong lớp. 2.5. Sử dụng linh hoạt các hình thức, phương pháp dạy học: - Việc lựa chọn, phối hợp, vận dụng hợp lí các phương pháp dạy học ở từng tiết dạy Toán có những đặc điểm riêng, không thể áp dụng một cách máy móc, đồng loạt. Không có phương pháp nào là “vạn năng”. Chỉ có sự tìm tòi sáng tạo, sử dụng linh hoạt các phương pháp dạy học mới đạt được thành công trong mỗi bài dạy. Giúp cho học sinh nhận ra các kiến thức đã học hoặc một số kiến thức mới trong nội dung các bài tập đa dạng và phong phú để các em tự khai thác, khám phá tìm tòi và lĩnh hội kiến thức một cách nhẹ nhàng, thoải mái, lôgic, hợp lý, giúp học sinh tự luyện tập, thực hành theo khả năng riêng của mình. - Dựa vào đặc thù tâm lý học sinh mau chán nếu tiết học cứ đều đều. Vì thế giáo viên cần luôn thay đổi không khí tiết học bằng những phương pháp, hình thức tổ chức khác nhau cho tiết học sôi nổi, tạo không khí thoải mái, xây dựng môi trường toán học tự nhiên, gắn liền với thực tế, tạo ra sự hỗ trợ giúp đỡ lẫn nhau giữa các đối tượng học sinh. - Giáo viên khuyến khích học sinh có thói quen tự kiểm tra, đánh giá kết quả bài làm của mình, của bạn. Tập cho các em có thói quen tìm nhiều phương án và lựa chọn phương án hợp lý nhất để giải quyết vấn đề của bài tập. - Chấm trả bài thường xuyên để nhận ra sự tiến bộ của học sinh, biểu dương khen thưởng kịp thời những học sinh làm tốt, tiến bộ, theo dõi, khích lệ những học sinh còn thụ động, rụt rè chưa mạnh dạn tham gia trong giờ học. - Giáo viên khuyến khích học sinh có thói quen tự kiểm tra, đánh giá kết quả bài làm của mình, của bạn. Tập cho các em có thói quen tìm nhiều phương án và lựa chọn phương án hợp lý nhất để giải quyết vấn đề của bài tập. - Chấm trả bài thường xuyên để nhận ra sự tiến bộ của học sinh, biểu dương khen thưởng kịp thời những học sinh làm tốt, tiến bộ, theo dõi, khích lệ những học sinh còn thụ động, rụt rè chưa mạnh dạn tham gia trong giờ học. - Trong giảng dạy phải lắng nghe, thấu hiểu tâm sinh lí của học sinh, động viên khuyến khích kịp thời, nghiêm khắc kiên quyết phê bình thái độ lơ là đối với nhiệm vụ học tập. Luôn tạo cho học sinh sự hứng thú, tính sáng tạo, linh hoạt, tự tin trong làm bài. - Giáo viên cần tổ chức và hướng dẫn chu đáo cho học sinh biết các khái niệm như “Tổng”, “hiệu”, “tỉ”, “quãng đường”, “thời gian”, “vận tốc”; thấy được mối liên quan giữa cái đã biết và cái phải tìm; biết cách giải các dạng bài toán trong chương trình lớp 5. - Tổ chức tốt hình thức học tập theo nhóm, tùy theo tính chất và nội dung của bài học, tiết học mà có thể chia nhóm như sau: phân nhóm học sinh có đủ trình độ (khá, giỏi, trung bình, yếu) để học sinh giúp đỡ lẫn nhau hoặc nhóm theo trình độ (nhóm học sinh khá giỏi, nhóm học sinh trung bình, nhóm học sinh yếu). - Học sinh phải được hướng dẫn học tập bằng hình thức “học mà chơi, chơi mà học”, thực hành để phát hiện kiến thức. * Hiệu quả của sáng kiến: Qua quá trình nghiên cứu sáng kiến kinh nghiệm “Phát huy tính tích cực trong dạy học giải toán có lời văn cho học sinh lớp 5”, tôi đã áp dụng một số biện pháp vào thực tế giảng dạy, học sinh lớp tôi đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Những học sinh yếu toán (có lời văn) có sự tiến bộ rõ rệt. Kết quả được thống kê như sau: * Năm học 2011 - 2012: Thời gian TS HS Điểm 9-10 Điểm 7-8 Điểm 5- 6 Điểm 1-4 SL TL SL TL SL TL SL TL Giữa kì I 27 3 16% 9 36% 6 24% 7 28% Cuối kì I 27 5 20% 10 40% 6 24% 4 16% Giữa kì II 27 3 16% 9 36% 6 24% 7 28% Cuối kì II 27 5 20% 10 40% 6 24% 4 16% * Năm học 2012 - 2013: Thời gian TS HS Điểm 9-10 Điểm 7-8 Điểm 5- 6 Điểm 1-4 SL TL SL TL SL TL SL TL Giữa kì I 25 3 16% 9 36% 6 24% 7 28% Cuối kì I 25 5 20% 10 40% 6 24% 4 16% Thực tế giảng dạy cho tôi nhận thấy việc sử dụng phát huy tính tích cực trong giải toán là một phương pháp rất tốt và khoa học, mang lại hiệu quả cao. Đồng thời giúp học sinh có khả năng phân tích, tổng hợp, từng bước phát triển năng lực tư duy, rèn luyện phương pháp và khả năng suy luận logic, vận dụng tri thức và kĩ năng thực hành vào thực tiễn. Cũng thông qua giải toán luyện cho học sinh những đức tính và phong cách làm việc của người lao động như: ý chí khắc phục khó khăn, thói quen xét đoán có căn cứ, tính cẩn thận, chu đáo, làm việc có kế hoạch. Chất lượng học tập môn toán của lớp tôi tăng dần, các học sinh yếu toán có lời văn ban đầu rất sợ học toán nhưng dần dần học được và yêu thích học toán. III. PHẦN KẾT LUẬN 1.Ý nghĩa của sáng kiến: Với kết quả trình bày ở trên, có thể khẳng định việc phát huy tính tích cực trong dạy học giải toán cho học sinh lớp 5 cơ bản đã thực hiện được mục đích, nhiệm vụ của sáng kiến. Đồng thời nhận thức được vai trò, ý nghĩa của việc thực hiện giải toán (có lời văn) đối với việc phát triển tư duy cho học sinh, rèn luyện cho các em kĩ năng tính toán. Việc nghiên cứu đề tài này giúp tôi nắm vững hơn về nội dung và phương pháp dạy học toán ở tiểu học nói chung và lớp 5 nói riêng. Trên cơ sở đó, bản thân cũng hiểu hơn về tính ưu việt của phương pháp dạy học mới, thấy được sự cấp bách, vận dụng vào việc giảng dạy và cũng hiểu được những khó khăn, vấp váp của học sinh lớp 5 khi học giải toán có lời văn. Trong quá trình giảng dạy, tôi đã áp dụng nhuần nhuyễn các phương pháp dạy học toán và nhận thấy rằng: - Hầu hết học sinh có năng lực, hứng thú học tập môn toán, kĩ năng tính toán nhanh, chính xác, hiểu bài, đạt yêu cầu với tỉ lệ khá cao. Tỉ lệ giỏi toán cao hơn các môn học khác. - Trong tiết học, học sinh thường thể hiện năng lực sáng tạo, ham học, tự tin, hứng thú khi tự mình tìm ra kiến thức mới, có tinh thần tích cực xây dựng bài. - Giáo viên áp dụng kiểu dạy học “lấy học sinh làm trung tâm” khá tích cực, sinh động và hiệu quả góp phần không nhỏ vào việc dạy học và giáo dục các em – những mầm non tương lai của đất nước. MỤC LỤC Nội dung Trang I. PHẦN MỞ ĐẦU 3 1. Lí chọn đề tài 6 2. Phạm vi áp dụng sáng kiến II. PHẦN NỘI DUNG 1. Thực trạng của nội dung cần nghiên cứu 7 7 1.1. Về tình hình học sinh lớp 5B 7 1.2. Số liệu thống kê 7 1.3. Thực trạng về giải toán có lời văn đối với học sinh lớp 5B 8 2. Các giải pháp: 9 2.1. Hướng dẫn học sinh nắm chắc phương pháp chung về các bước giải các bài toán có lời văn 9 2.2. Tổ chức thực hiện 14 2.3. Hướng dẫn học sinh thực hiện các bước giải một số dạng toán có lời văn trong chương trình lớp 5 16 2.4. Kết quả 25 III. PHẦN KẾT LUẬN 26 1.Ý nghĩa của sáng kiến 26 2. Kiến nghị 26 TÀI LIỆU THAM KHẢO STT Tên tài liệu Tác giả Nhà xuất bản Năm xuất bản 1 Sách giáo khoa Toán 5 Vũ Văn Dương Nguyễn Thị Bình NXBGD Hà Nội 2006 2 Giáo trình dạy học môn Toán ở Tiểu học Đỗ Trung Hiệu Đỗ Đình Hoan Vũ Dương Thụy Vũ Quốc Chung NXB Đại học Sư phạm 2006 3 Sách bài soạn Toán 5 Nguyễn Tuấn Lê Thu Huyền Nguyễn Thị Hương Đoàn Thị Lan NXBGD Hà Nội 2007 4 Phương pháp dạy học các môn học ở lớp 5 Ngô Trần Ái Nguyễn Quý Thảo NXBGD Hà Nội 2007
Tài liệu đính kèm: