I/ TÊN ĐỀ TÀI
BIỆN PHÁP ÁP DỤNG TRÒ CHƠI VÀO GIẢNG DẠY LỚP GHÉP 1 + 2 TRUỜNG TIỂU HỌC LÊ VĂN TÁM.
II/ ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Bậc Tiểu học là bậc học đầu tiên của Giáo dục phổ thông. Bấc kỳ mọi người từ lúc bé đã phải trải qua bậc Tiểu học. Lý luận và thực tiễn đều khẳng định rằng, những dấu ấn của trường Tiểu học ảnh hưởng rất lớn, sâu sắc đến cả cuộc đời của con người. Việc giáo dục các em là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng mà cả xã hội đều quan tâm, bởi vì “Trẻ em là chủ nhân tương lai của đất nước”. Hơn nữa thế kỷ XXI, thế kỷ của khoa học kỹ thuật không ngừng phát triển, yêu cầu những chủ nhân phải là những con người có năng lực, trí tuệ, năng động và sáng tạo.
Để đào tạo những con người đáp ứng với yêu cầu của xã hội hiện nay và đáp ứng với mục tiêu của Nghị quyết TWII khoá VIII đã nêu giáo dục đến năm 2010 là “Nâng cao chất lượng toàn diện bậc Tiểu học” đó là nhiệm vụ vô cùng to lớn của mỗi người giáo viên. Trong thời gian này xã hội đang nói nhiều về giáo dục, về chất lượng học sinh lên lớp, học sinh ngồi nhầm lớp. Từ khi có cuộc vận động “hai không” của Bộ trưởng Bộ giáo dục, những người giáo viên đứng lớp lại là người trực tiếp giảng dạy, giáo dục các em như tôi phải đặt ra cho mình nhiệm vụ, phải suy nghĩ làm sao để “sản phẩm” của mình góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, để các em phát triển hoàn thiện hơn, để ngày mai xã hội có những chủ nhân tốt, thế giới có nhũng chủ nhân tương lai.
Ở bậc tiểu học, các lớp đầu cấp nhất là lớp Một lại là “nền móng” cho các em học lên những lớp trên. Lứa tuổi 6 , 7 tuổi là lứa tuổi “học mà chơi, chơi mà học”, học một cách tự giác với sự ham thích sẽ đạt hiệu quả cao hơn. Qua nhiều năm giảng dạy tiểu học tôi nhận thấy rằng: Ở lứa tuổi này các em còn rất ham chơi, việc học mới chỉ là “sự khởi đầu”, áp dụng các trò chơi sẽ hỗ trợ cho các em học tốt hơn, tiếp thu nhanh hơn. Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy lớp ghép 1 + 2 như tôi không khỏi trăn trở, băn khoăn làm sao cho chất lượng giáo dục có hiệu quả, học sinh biết đọc, biết viết, biết tính toán và biết tự xử lý những tình huống cần thiết đối với lứa tuổi các em. Nên tôi đã suy nghĩ đưa nội dung bài dạy của mình lồng ghép vào các trò chơi để học sinh ham học và tự tìm tòi, chiếm lĩnh kiến thức.
I/ TÊN ĐỀ TÀI BIỆN PHÁP ÁP DỤNG TRÒ CHƠI VÀO GIẢNG DẠY LỚP GHÉP 1 + 2 TRUỜNG TIỂU HỌC LÊ VĂN TÁM. II/ ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Bậc Tiểu học là bậc học đầu tiên của Giáo dục phổ thông. Bấc kỳ mọi người từ lúc bé đã phải trải qua bậc Tiểu học. Lý luận và thực tiễn đều khẳng định rằng, những dấu ấn của trường Tiểu học ảnh hưởng rất lớn, sâu sắc đến cả cuộc đời của con người. Việc giáo dục các em là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng mà cả xã hội đều quan tâm, bởi vì “Trẻ em là chủ nhân tương lai của đất nước”. Hơn nữa thế kỷ XXI, thế kỷ của khoa học kỹ thuật không ngừng phát triển, yêu cầu những chủ nhân phải là những con người có năng lực, trí tuệ, năng động và sáng tạo. Để đào tạo những con người đáp ứng với yêu cầu của xã hội hiện nay và đáp ứng với mục tiêu của Nghị quyết TWII khoá VIII đã nêu giáo dục đến năm 2010 là “Nâng cao chất lượng toàn diện bậc Tiểu học” đó là nhiệm vụ vô cùng to lớn của mỗi người giáo viên. Trong thời gian này xã hội đang nói nhiều về giáo dục, về chất lượng học sinh lên lớp, học sinh ngồi nhầm lớp. Từ khi có cuộc vận động “hai không” của Bộ trưởng Bộ giáo dục, những người giáo viên đứng lớp lại là người trực tiếp giảng dạy, giáo dục các em như tôi phải đặt ra cho mình nhiệm vụ, phải suy nghĩ làm sao để “sản phẩm” của mình góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, để các em phát triển hoàn thiện hơn, để ngày mai xã hội có những chủ nhân tốt, thế giới có nhũng chủ nhân tương lai. Ở bậc tiểu học, các lớp đầu cấp nhất là lớp Một lại là “nền móng” cho các em học lên những lớp trên. Lứa tuổi 6 , 7 tuổi là lứa tuổi “học mà chơi, chơi mà học”, học một cách tự giác với sự ham thích sẽ đạt hiệu quả cao hơn. Qua nhiều năm giảng dạy tiểu học tôi nhận thấy rằng: Ở lứa tuổi này các em còn rất ham chơi, việc học mới chỉ là “sự khởi đầu”, áp dụng các trò chơi sẽ hỗ trợ cho các em học tốt hơn, tiếp thu nhanh hơn. Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy lớp ghép 1 + 2 như tôi không khỏi trăn trở, băn khoăn làm sao cho chất lượng giáo dục có hiệu quả, học sinh biết đọc, biết viết, biết tính toán và biết tự xử lý những tình huống cần thiết đối với lứa tuổi các em. Nên tôi đã suy nghĩ đưa nội dung bài dạy của mình lồng ghép vào các trò chơi để học sinh ham học và tự tìm tòi, chiếm lĩnh kiến thức. 2. Thực trạng: * Về giáo viên: Thông thường giáo viên luôn luôn tham khảo và sử dụng các biện pháp dạy học theo sách hướng dẫn. Việc này giúp giáo viên rất nhiều trong quá trình giảng dạy. Song việc áp dụng và tuân thủ với sách là điều hoàn toàn chính xác nhưng quá trình áp dụng ở lứa tuổi học sinh lớp 1, 2 các em sẽ mau chán và không thích học vì các em còn ở tuổi ham chơi. Hơn nữa lớp ghép 1 + 2 là lớp học ghép hai nhóm trình độ cùng học chung trong một không gian nhất định, thời lượng cho một tiết học vẫn như mọi tiết học của các lớp khác nên việc giảng dạy của giáo viên hết sức khó khăn. * Về học sinh: Các em còn ở lứa tuổi ham chơi, chưa có ý thức tự giác, tích cực học tập nên các em hay lơ đãng trong giờ học, ít tập trung chú ý và tiếp thu kiến thức một cách thụ động. Có nhiều em lại thích học môn này nhưng lại không thích học môn khác, không học đều ở các môn học. Việc nắm kiến thức đôi lúc cũng mau nhớ nhưng cũng chóng quên. 3. Lý do chọn đề tài: Qua việc khảo sát chất lượng học sinh đầu năm tôi nhận thấy chất lượng học sinh yếu cao. Học sinh không tập trung nghe giảng, chán làm việc,thậm chí có một số em lớp 1 không chịu tham gia vào các hoạt động học tập mà còn thường xuyên xin phép ra ngoài. Do đặc thù của vùng miền, các em nói câu cụt, trả lời không hoàn chỉnh cả câu, các em rụt rè, sợ sệt. Các em ham chơi, ít thích học . Phụ huynh học sinh chưa quan tâm đúng mức đến con em của mình. Bên cạnh đó, do đặc điểm tâm lý đồng thời do việc giảng dạy của giáo viên chưa đáp ứng với nhu cầu tiếp thu kiến thức của các em. Qua nhiều năm giảng dạy lớp ghép 1 + 2, tôi đã theo dõi và nắm không ít những khó khăn mà nó ảnh hưởng đến việc tiếp thu kiến thức của các em. Làm thế nào để học sinh tiếp thu kiến thức một cách tự nhiên, nhớ lâu và mang lại chất lượng cho các em là điều tôi trăn trở lo lắng. Để giúp học sinh khắc sâu kiến thức, nhanh thuộc bài, nhớ lâu và tự tìm hiểu chiếm lĩnh kiến thức một cách nhẹ nhàng. Học sinh cảm thấy vui vẻ, nhanh nhẹn cởi mở, quá trình học tập trở thành một hình thức vui chơi hấp dẫn, lôi cuốn được tất cả học sinh cùng tham gia, bản thân tôi tự nghiên cứu đề ra cho mình nhiệm vụ và biện pháp áp dụng trò chơi vào giảng dạy lớp ghép 1 + 2 này. 4. Giới hạn nghiên cứu đề tài: Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 9/2008 đến tháng 3/2009. Thời gian áp dụng sáng kiến: Tháng 9/2008 dến tháng 3/2009. Phạm vi nghiên cứu: Học sinh lớp ghép 1 + 2 trường tiểu học Lê Văn Tám. III/ CƠ SỞ LÝ LUẬN Trong dạy học nói chung, ở Tiểu học nói riêng, học sinh đóng vai trò chủ đạo. Học sinh tư duy một cách linh hoạt, huy động tích hợp các kiến thức và khả năng của mình vào các tình huống khác nhau. Vì vậy, có thể coi việc áp dụng trò chơi học tập là một trong những biểu hiện năng động nhất của hoạt động trí tuệ học sinh. Cũng qua việc áp dụng trò chơi học tập giáo viên giúp học sinh từng bước phát triển năng lực tư duy, rèn luyện tính nhanh nhẹn, khả năng phán đoán, tinh thần tự giác và kỹ năng suy luận. Có thể nói: Áp dụng trò chơi vào giảng dạy lớp ghép 1 + 2 không những hình thành kỹ năng mà còn giúp học sinh phát triển, sáng tạo và khả năng giải quyết vấn đề. Vì vậy khi giảng dạy giáo viên cần tích cực tìm tòi, nghiên cứu và tạo nên nhiều trò chơi để tránh sự nhàm chán trong các tiết học . Bên cạnh đó, giáo viên áp dụng trò chơi đúng lúc, đúng chỗ và phù hợp với từng đối tượng học sinh. Giáo viên thường xuyên có biện pháp kích thích học sinh như: khen ngợi, tuyên dương, cổ vũ, thưởng phạt rõ ràngtạo sự hứng thú cho học sinh cùng tham gia. Từ đó, học sinh ghi nhớ nội dung bài học thông qua trò chơi. IV/ CƠ SỞ THỰC TIỄN Trà Giang là một xã khó khăn của huyện miền núi Bắc Trà My, giao thông cách trở, dân cư ở thưa thớt. Đa số các em là con em nông dân, điều kiện kinh tế hạn hẹp ảnh hưởng đến việc học tập của các em. Sự quan tâm của một số phụ huynh đối với các em chưa đúng mức.Hơn nữa, môi trường tiếp xúc đến với các em còn hạn chế. Do đặc thù của vùng miền, học sinh học ghép hai lớp với hai nhóm trình độ khác nhau vào cùng chung một không gian. Được sự phân công của Ban giám hiệu, bản thân tôi trực tiếp giảng dạy lớp ghép 1 + 2. Ngay từ đầu năm tôi đã tìm hiểu và nhận thấy những khó khăn và thuận lợi trong việc giảng dạy lớp ghép 1 + 2 như sau: a. Thuận lợi: Được sự quan tâm chỉ đạo sâu sát của Phòng giáo dục, Ban giám hiệu nhà trường, chuyên môn nhà trường, tổ chuyên môn và sự đóng góp giúp đỡ của đồng nghiệp. Bản thân tôi đã nhiều năm giảng dạy lớp ghép 1 + 2. Giáo viên được trang bị đầy đủ sách giáo khoa, sách giáo viên, sách tham khảo và đặc biệt là bộ đồ dùng dạy cho các môn học tương đối đầy đủ. Học sinh có đồ dùng cá nhân để phục vụ cho việc học tập và tham gia vào trò chơi học tập. Bộ đồ dùng của giáo viên và học sinh giống nhau, khi sử dụng rất thuận lợi. Sự quan tâm của phụ huynh cũng góp phần nâng cao chất lượng học tập của học sinh. b. Khó khăn: Do đặc điểm tâm sinh lý của học sinh. Học sinh chưa có ý thức học tập trong một môi trường gò bó, ràng buộc. Trong giao tiếp còn hạn chế, học sinh hay lơ đãng, không tự giác, ít hoạt động, ít tập trung vào bài học. Ở độ tuổi các em dễ tiếp thu, mau nhớ cũng chóng quên dẫn đến việc học tập chưa cao. Bên cạnh đó, còn có một số phụ huynh chưa thực sự quan tâm đến con em mình cũng ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng học tập của học sinh. Học sinh học với hai nhóm trình độ khác nhau cùng chung trong một không gian, thời gian nhất định, chung một cái bảng lớn. V/ NỘI DUNG NGHIÊN CỨU Nhằm thực hiện tốt việc dạy và học, nhằm đào tạo những con người năng động sáng tạo, tư duy một cách nhẹ nhàng, không áp đặt nhưng mang lại hiệu quả cao. Giáo viên cần hướng dẫn học sinh theo định hướng đúng đắn từ điều kiện giao tiếp trong sinh hoạt, biết áp dụng vào thực tiễn và tìm tòi, quản lý các hoạt động sao cho hợp lý để các kỹ năng trong cuộc sống thường ngày dần dần mang lại hiệu quả giảng dạy cao. Để giúp học sinh áp dụng các trò chơi vào việc học,giáo viên cần xác định cấu trúc và kỹ năng như sau: Thứ tự Trình tự cấu trúc Hệ thống kỹ năng 01 Định hướng trò chơi - Kỹ năng giao tiếp trong sinh hoạt thường ngày. - Kỹ năng tiếp thu những trò chơi mới từ giáo viên, từ các thông tin đại chúng. 02 Lập chương trình nội dung - Kỹ năng quan sát, thực hành. - Kỹ năng hoạt động. - Kỹ năng thu thập thông tin. - Kỹ năng liên tưởng. - Kỹ năng nhớ. - Kỹ năng vận dụng kiến thức. 03 Quá trình thực hiện - Kỹ năng diễn đạt bằng việc làm (tham gia các trò chơi dân gian, các trò chơi mà giáo viên cung cấp, các trò được tham khảo từ các thông tin đại chúng). - Kỹ năng diễn đạt bằng lời nói (tính toán, dùng từ, đặt câu, đáp lời người khác, giao tiếp, sinh hoạt). 2/ Phân tích minh hoạ bằng các biện pháp cụ thể: Để giúp học sinh nắm được kiến thức từ các trò chơi đòi hỏi người giáo viên đứng lớp phải có một quá trình tìm hiểu: Tìm hiểu từ trò chơi dân gian mà học sinh tự tổ chức, trò chơi từ truyền hình, bên cạnh đó những trò chơi đã được học tập trong các đợt tập huấn, dự giờ thăm lớp cũng góp phần quan trọng vào việc giảng dạy lớp ghép 1 + 2 này. Học sinh của chúng ta rất ngây thơ, ham chơi, chưa tự giác tích cực nên trong học tập các em mau chán theo thời gian. Vì vậy, giáo viên phải thay đổi nhiều hình thức trò chơi, nhiều nội dung trò chơi, áp dụng cho đúng thời điểm và phù hợp với đặc điểm tâm lý của học sinh nhằm mang lại hiệu quả cao trong các tiết học. Tôi đã tìm hiểu tâm lý của học sinh và cùng tham gia với tính cách tham gia và hỗ trợ để giúp các em phát huy năng lực phát huy khả năng tiếp thu kiến thức và động viên dìu dắt những học sinh còn chậm chạp, yếu kém. Tôi đã phân thành hai loại trò chơi: a. Trò chơi dành chung cho cả hai nhóm trình độ: Đó là các trò chơi mà cả hai nhóm trình độ khác nhau đều có thể cùng tham gia ... ở lớp 1 tôi đã áp dụng trò chơi này. + Tiến hành trò chơi: Giáo viên đính chữ cái (vần) hô thuyền ai thuyền ai? Học sinh hô tên thuyền theo chữ cái (vần) của giáo viên đính ở bảng lớp. Giáo viên hỏi thuyềnchở gì? - Học sinh đáp câu có chữ cái (vần) theo yêu cầu của giáo viên. Trò chơi này áp dụng với môn học vần ở lớp 1 rất có hiệu quả. Trò chơi có tác dụng củng cố lại kiến thức mà học sinh đã được học nhằm giúp các em nhớ lâu hơn. Khi áp dụng trò chơi Thuyền ai tôi thường lồng vào phần củng cố bài. Trò chơi : “Ghép hoa”. (Nội dung trò chơi: Xem phần phụ lục) Trò chơi ghép hoa được áp dụng ở các môn học: Toán, Luyện từ và câu, Đạo đức, Tự nhiên xã hội. Trò chơi ghép hoa thường được sử dụng vào giải quết bài tập ở phân môn Luyện từ và câu, phân môn Đạo đức, phân môn Tự nhiên xã hội và tiết luyện tập hay luyện tập chung của môn Toán ở lớp 1 và lớp 2 . Nhìn chung trò chơi ghép hoa sẽ giúp học sinh nhanh nhớ nội dung bài cũ và củng cố kiến thức một cách chắc chắn. - Trò chơi : “Ong tìm chữ” hỗ trợ cho tiết học vần lớp 1. Các thẻ từ, thẻ chữ đã chuẩn bị được dùng trong trong nhiều tiết học vần khi học xong tiết 1 của môn học vần lớp 1, tôi cho các em tìm và đính vào bảng cài các từ có vần mà các em đã được học trong tiết học hôm nay. Hai, ba hay nhiều đội trong nhóm cùng tham gia, đội nào tìm được nhiều hơn sẽ thắng. - Trò chơi: “Bin go”. Giáo viên chuẩn bị các phiếu pin go, giáo viên cho học sinh nhẩm kết quả bài tập ở phiếu pin go trong một thời gian nhất định. Sau đó giáo viên đính và đọc kết quả, học sinh tìm nội dung trong phiếu có bài tập nào đúng với kết quả của giáo viên sẽ làm ký hiệu. Nếu có 3 phép tính cùng thẳng hàng theo hàng dọc, ngang, chéo sẽ được hô “pin go”.Trò chơi này dùng trong tiết toán lớp 1 hoặc lớp 2 có bài toán tinh nhẩm rất có hiệu quả. Nhóm trình độ hai đang tham gia trò chơi: Bingo Bên cạnh đó còn rất nhiều trò chơi như: Đồng hồ kim, Tôi là ai, Ô số , Ô chữ thần kỳ, Rung chuông vàng, Nối tiếp, Tiếp sức, Rắn và thang.v.v. đã được tôi vận dụng vào tổ chức cho học chơi trò chơi để giúp tôi dạy lớp ghép này. Tóm lại đối với một giáo viên giảng dạy lớp ghép, trong cùng một thời gian là 35 đến 40 phút nhất định nhưng giáo viên phải chuyển tải hết nội dung cả hai nhóm trình độ là hết sức khó khăn, đòi hỏi người giáo viên phải chuẩn bị chương trình để học sinh tự hoạt động chiếm lĩnh kiến thức một cách nhẹ nhàng, mau nhớ, học sinh học với tính cách hỗ trợ cho nhau, học sinh giỏi hỗ trợ cho học sinh yếu, học sinh mạnh dạn hỗ trợ cho học sinh rụt rè từ đó tất cả các em đều phát triển. Hơn nữa việc tổ chức trò chơi học tập trong lớp ghép là một điều cần thiết giúp cho giáo viên có thời gian để giảng dạy nội dung cho nhóm trình độ kia. Trong quá trình tổ chức trò chơi đòi hỏi người giáo viên phải chuẩn bị các thẻ từ, thẻ số và các phần bài tập cần sử dụng trong chương trình một cách chu đáo, chính xác để mang lại hiệu quả cao trong các tiết học. Khi tổ chức trò chơi, học sinh phải chủ động, tự suy nghĩ, sáng tạo, tìm tòi kết quả mới mang lại hiệu quả cao. Song việc theo dõi động viên khích lệ của giáo viên để giúp tất cả các đối tượng học sinh phát huy năng lực trí tuệ theo hướng đúng nhất. VI/ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Qua việc tìm tòi nghiên cứu và kinh nghiệm giảng dạy lớp ghép ở vùng khó khăn tôi đã áp dụng tổ chức chương trình vào giảng dạy cho các em. Điều đầu tiên tôi nhận thấy là các em đi học đều, ít vắng học. Bên cạnh đó giúp các em nhanh nhẹn, linh hoạt, ham học và nhất là rất thích được tham gia vào trò chơi, rất thích mình sôi nổi hơn các bạn từ đó việc lĩnh hội kiến thức của học sinh mang lại hiệu quả cao. Chất lượng học tập của các em tiến bộ rõ rệt, kết quả cụ thể qua các môn học như sau: Môn: Toán Tổng số học sinh Mốc thời gian Giỏi Khá Trung bình Yếu SL TL SL TL SL TL SL TL 16/4 (Cả 2 nhóm trình độ) Đầu năm 4 25 % 8 50 % 4 25 % Giữa học kỳ I 5 31,25 % 4 25 % 5 31,25 % 2 12,5 % Cuối học kỳ I 5 31,25 % 4 25 % 7 43,75 % Giữa học kỳ II 6 37,5 % 4 25 % 6 37,5 % Môn: Tiếng Việt Tổng số học sinh Mốc thời gian Giỏi Khá Trung bình Yếu SL TL SL TL SL TL SL TL 16/4 (Cả 2 nhóm trình độ) Đầu năm 5 31,25 % 5 31,25 % 6 37,5 % Giữa học kỳ I 3 18,75 % 4 25 % 8 50 % 1 6,25 % Cuối học kỳ I 3 18,75 % 5 31,25 % 8 50 % Giữa học kỳ II 6 37,5 % 5 31,25 % 5 31,25 % Từ kết quả trên cho thấy, chất lượng học sinh sau thời gian áp dụng sáng kiến chuyển biến rõ rệt. Học sinh nắm vững kiến thức là điều kiện để các em học tốt lên các lớp trên. VII/ KẾT LUẬN Qua việc vận dụng sáng kiến kinh nghiệm này vào quá trình giảng dạy, bản thân tôi nhận thấy đạt hiệu quả rõ nét đồng thời rút ra bài học kinh nghiệm để áp dụng sáng kiến này vào giảng dạy như sau: - Để học sinh có điều kiện tham gia vào trò chơi một cách có hiệu quả, giáo viên phải chuẩn bị thật chu đáo từ phiếu trò chơi. Có kế hoạch đầy đủ trước khi soạn giảng, phiếu hay nội dung trò chơi phải sát với chương trình các em đang học. Hướng dẫn học sinh tham gia trò chơi học tập một cách nhiệt tình, nhắc nhở theo dõi và dìu dắt tất cả các em đều tham gia. Quan tâm rõ nét đến từng đối tượng khác nhau tuỳ theo mức độ của các em. - Luôn tạo sự hào hứng, vui vẻ, thoả mái cho các em, trong các tiết học. Đặc biệt là luôn luôn chú ý tạo tình huống giao tiếp, tạo điều kiện để tất cả học sinh cùng tham gia vào trò chơi. - Sự kết hợp của học sinh với giáo viên phải hài hoà, học sinh phải có trách nhiệm trong việc tham gia trò chơi học tập và phải có tinh thần học tập từ việc tham gia trò chơi vì “chơi mà học” chứ không phải chơi để quên đi việc học. - Tuỳ theo nội dung bài học, tiết học mà giáo viên tổ chức trò chơi cho phù hợp bên cạnh đó giáo viên phải bố trí thời gian tổ chức cho hợp lý khỏi ảnh hưởng đến các nội dung khác. Việc phân bố trò chơi thay đổi theo tùng nội dung, từng môn học cũng rất quan trọng để tránh sự nhàm chán ở các em. Luôn thay đổi nhóm chơi, số lượng học sinh trong nhóm. - Giáo viên luôn luôn có nhận xét, cổ vũ, động viên khích lệ, khen chê rõ ràng để kịp thời mang uốn nắn học sinh yếu nhằm mang lại hiệu quả chất lượng cao cho cả lớp học. Khi thực hiện áp dụng sáng kiến này, bản thân tôi phải chú ý, theo dõi từng em trong suốt quá trình tổ chức từ đầu năm đến nay. Tóm lại, khi thực hiện đề tài này đòi hỏi người giáo viên giảng dạy phải hết sức nhiệt tình, có trách nhiệm cao để đầu tư vào việc chuẩn bị và tổ chức trò chơi học tập. VIII/ ĐỀ NGHỊ * Đối với học sinh: - Có đầy đủ sách giáo khoa, dụng cụ học tập. - Đọc và nghiên cứu kỹ nội dung đề bài và lệnh của trò chơi. - Có tinh thần và trách nhiệm khi tham gia vào trò chơi. * Đối với giáo viên: - Có đầy đủ sách giáo khoa, sách tham khảo, tư liệu tập huấn và đầu tư vào việc nghiên cứu nội dung bài dạy. - Gần gũi với học sinh, nắm bắt được tâm lý của từng đối tượng học sinh để có biện pháp tốt hơn trong việc áp dụng tổ chức trò chơi học tập. * Đối với cấp trên: Thường xuyên mở hội thảo chuyên đề về giảng dạy lớp ghép nhất là lớp ghép 1 + 2. Trên đây là kinh nghiệm áp dụng trò chơi học tập vào giảng dạy lớp ghép 1 + 2. Qua quá trình tổ chức, tôi xin ghi lại sáng kiến này mong đồng chí đồng nghiệp, các cấp lãnh đạo đóng góp xây dựng để mô hình sáng kiến đạt hiệu quả hơn. Xin chân thành cảm ơn! Người thực hiện Đỗ Thị Hoè IX/ PHẦN PHỤ LỤC: 1. Trò chơi: Đố bạn. Giáo viên hướng dẫn cho học sinh về quy định trò chơi phải tập trung vào giải quyết 1 bài tập trong Luyện từ và câu, Toán hoặc một số môn học khác tuỳ thuộc vào nội dung bài dạy. Chuẩn bị: Nội dung bài tập sách giáo khoa hoặc thêm một số bài tập mang nội dung tương tự với bài tập trong tiết dạy (dùng để liên hệ thực tế) Tiến trình của trò chơi: Giáo viên giao câu hỏi hoặc bài tập cần giải quyết cho các nhóm tự góp ý cùng nhau đặt câu hỏi và chuẩn bị câu trả lời sau đó giáo viên tổ chức cho các nhóm đố nhau. Giáo viên chỉ cần chốt lại ý trả lời đúng của từng nhóm để chốt lại nội dung bài học. Khi áp dụng trò chơi này với một nhóm trình độ giúp giáo viên có thời gian để làm việc với nhóm trình độ kia trong dạy lớp ghép. 2. Trò chơi: Ghép hoa. Giáo viên xác định nội dung trò chơi phải tập trung vào giải quyết 1 bài tập trong Toán, Đạo đức, Chính tả, Luyện từ và câu hoặc một số môn học khác tuỳ thuộc vào nội dung bài dạy. Chuẩn bị: Nội dung bài tập (câu hỏi) trong sách giáo khoa hoặc thêm một số bài tập mang nội dung tương tự với bài tập (câu hỏi) trong tiết dạy (dùng để liên hệ thực tế). Các cánh hoa ghi nội dung câu hỏi hoặc bài tập, nhuỵ hoa ghi kết quả bài tập hoặc câu trả lời, có thể có nhiều nhuỵ hoa cho học sinh lựa chọn. Tiến trình của trò chơi: Giáo viên chia lớp thành hai hay nhiều nhóm nhỏ sau đó giao câu hỏi hoặc bài tập cần giải quyết cho các nhóm tự góp ý tính toán rồi cùng nhau ghép lại thành bông hoa. Đại diện nhóm mang hoa trình bày ở nơi quy định của nhóm. Các nhóm nhận xét sau đó giáo viên chỉ cần nhận xét chốt lại ý trả lời hay kết quả đúng của từng nhóm để chốt lại nội dung bài học. Khi áp dụng trò chơi với một nhóm trình độ giúp giáo viên có thời gian để làm việc với nhóm trình độ kia trong giảng dạy lớp ghép. X/ TÀI LIỆU THAM KHẢO: TT Tên tác giả Tên tài liệu Nhà xuất bản Năm xuất bản 01 Bộ GD&ĐT Bộ sách giáo khoa các môn học của lớp 1 và 2 NXBGD 02 Bộ GD&ĐT Bộ sách giáo viên các môn học của lớp 1 và 2 NXBGD 03 Trò chơi trên các kênh truyền hình 04 Tài liệu tập huấn thay sách giáo khoa và nội dung tập huấn đổi mới phương pháp dạy học do các cấp tổ chức. XI/ MỤC LỤC Tên đề tài 01 Đặt vấn đề 01 Cơ sở lý luận 03 Cơ sở thực tiễn 03 Nội dung nghiên cứu 04 Kết quả nghiên cứu 12 Kết luận 13 Đề nghị 14 Phần phụ lục 16 Tài liệu tham khảo Mục lục Phiếu đánh giá xếp loại sáng kiến Để trò chơi này có hiệu quả, tôi luôn chuẩn bị phần bài tập ghi vào cánh hoa, phần trả lời hay đáp án ghi vào nhuỵ hoa. Sau đó tôi chia lớp ra thành nhiều hay ít nhóm tuỳ thuộc vào bài tập hay câu hỏi và hướng dẫn cho các em thảo luận, ghép cánh hoa vào nhuỵ hoa cho thích hợp.
Tài liệu đính kèm: