Đề tài: Rèn kỹ năng đọc cho học sinh lớp 2

Đề tài: Rèn kỹ năng đọc cho học sinh lớp 2

Như chúng ta đã biết, giao tiếp bằng ngôn ngữ được thực hiên qua hai hình thức:khẩu ngữ (giao tiếp bằng lời nói) và bút ngữ (giao tiếp bằng chữ viết). Giao tiếp bằng hình thức khẩu ngữ bao gồm hai hành vi nói và nghe. Giao tiếp bằng bút ngữ gồm hai hành vi viết và đọc. Cho dù là giao tiếp bằng khẩu ngữ hoặc bút ngữ thì sản phẩm của giao tiếp vẫn chứa đựng nội dung thông tin do người nói hoặc viết sản sinh ra. Trong đó đọc là một hoạt động giao tiếp bằng khẩu ngữ, là hành vi tiếp nhận thông tin qua văn bản. Nhờ hoạt động đọc mà con người đã chuyển giao cho nhau những kinh nghiệm của đời sống, những thành tựu văn hoá, khoa học, tư tưởng, tình cảm, thông tin hiểu biết của các thế hệ trước và của cả những người đương thời, phần lớn được ghi lại bằng chữ viết, làm giàu thêm tri thức của mỗi người và thúc đẩy xã hội không ngừng phát triển.

doc 23 trang Người đăng Nobita95 Lượt xem 7517Lượt tải 2 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đề tài: Rèn kỹ năng đọc cho học sinh lớp 2", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần I: ĐẶT VẤN ĐỀ
A. LÝ DO LỰA CHỌN ĐỀ TÀI:
	- Như chúng ta đã biết, giao tiếp bằng ngôn ngữ được thực hiên qua hai hình thức:khẩu ngữ (giao tiếp bằng lời nói) và bút ngữ (giao tiếp bằng chữ viết). Giao tiếp bằng hình thức khẩu ngữ bao gồm hai hành vi nói và nghe. Giao tiếp bằng bút ngữ gồm hai hành vi viết và đọc. Cho dù là giao tiếp bằng khẩu ngữ hoặc bút ngữ thì sản phẩm của giao tiếp vẫn chứa đựng nội dung thông tin do người nói hoặc viết sản sinh ra. Trong đó đọc là một hoạt động giao tiếp bằng khẩu ngữ, là hành vi tiếp nhận thông tin qua văn bản. Nhờ hoạt động đọc mà con người đã chuyển giao cho nhau những kinh nghiệm của đời sống, những thành tựu văn hoá, khoa học, tư tưởng, tình cảm, thông tin hiểu biết của các thế hệ trước và của cả những người đương thời, phần lớn được ghi lại bằng chữ viết, làm giàu thêm tri thức của mỗi người và thúc đẩy xã hội không ngừng phát triển.
- Nếu không biết đọc thì con người không thể tiếp thu nền văn minh của loài người, không thể sống một cuộc sống bình thường có hạnh phúc theo đúng nghĩa trong một xã hội hiện đại ngày nay. Vì vậy, đọc là một nhu cầu không thể thiếu đối với mỗi con người.
- Trên đây là tầm quan trọng của việc đọc đối với một đời người, nhưng đối với một đứa trẻ thì việc đọc lại càng có ý nghĩa thực tế hơn.
+ Trước hết là trẻ phải đi học, phải học đọc, sau đó trẻ phải đọc để học. Việc đọc giúp trẻ chiếm lĩnh một ngôn ngữ để dùng trong giao tiếp và học tập. Nó là công cụ để học tập các môn học khác.
+ Đọc sẽ tạo ra hứng thú và động cơ học tập, tạo điều kiện để học sinh có khả năng tự học và tinh thần học tập cả đời.
+ Mục đích cuối cùng của việc đọc là để hiểu và vận dụng những điều đã học vào cuộc sống. Vì vậy, sau khi đã hoàn thành việc đọc đúng, đọc trơn ở lớp 2 sang lớp 3 các em sẽ tiếp tục được hoàn thiện và tập trung vào việc đọc hiểu và diễn cảm nhiều hơn. Chính những điều kiện vừa nêu trên khẳng định sự cần thiết việc hình thành và phát triển một cách có hệ thống về năng lực đọc cho học sinh.
- Là một giáo viên nhiều năm liền được phân công giảng dạy lớp 2 bản thân tôi luôn băn khoăn, trăn trở về việc tìm ra một số giải pháp nào đó nhằm nâng cao kĩ năng đọc cho học sinh, giúp học sinh dễ dàng hơn trong việc tiếp cận kiến thức. Đó cũng là lý do tôi chọn đề tài này để nghiên cứu, nhằm trao đổi cùng đồng nghiệp trong việc giáo dục con người mà mỗi giáo viên chúng ta đang đảm nhận nhiệm vụ cao cả đó.
 	 B. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
- Như chúng ta đều biết, để thực hiện đúng và đủ nội dung chương trình lớp 2 thì cả giáo viên và học sinh phải hoàn thành một lượng kiến thức tương đối lớn (trung bình là gần 5 tiết/1 buổi học, tương đương với 23 tiết học/tuần), giáo viên và học sinh phải rất chật vật với khối lượng kiến thức và thời gian đã quy định.
	- Cho dù trên lí thuyết thì học sinh sau khi đã hoàn thành chương trình lớp 1 thì phải thông thạo phần vần đọc trơn và một số kĩ năng tương đương khác. Nhưng đối với học sinh nơi tôi đang công tác với rất nhiều loại học sinh nhiều miền Nam có, miền Bắc có, miền Trung có, miền Tây có, có cả con em đồng bào dân tộc, con em của dân di cư từ nhiều nơi khác đến việc học hành chưa được quan tâm, cách phát âm không chuẩn. Dẫn đến kiến thức, kĩ năng đọc của học sinh chưa đạt yêu cầu. Mặt khác, ở lớp dưới đôi khi giáo viên còn nương tay khi đánh giá, cho điểm chưa sát còn du di vì học sinh dân tộc.
	- Mặc dù, đã có nhiều lần cải cách chỉnh lí chương trình sách giáo khoa cũng như đổi mới, phương pháp dạy học nói chung và phương pháp dạy tập đọc nói riêng nhưng việc dạy tập đọc cho học sinh lớp 2 vẫn có nhiều hạn chế:
	 + Giáo viên nặng về truyền đạt, hay sa đà vào lối giảng văn. Nhiều giáo viên chưa có thói quen tự rèn đọc cho bản thân, đôi khi có những bài văn, bài thơ giáo viên chưa thực sự đọc diễn cảm theo đúng ý đồ của tác giả. 
	+ Quen sử dụng phương pháp truyền thống, không gây hứng thú học tập cho học sinh
	+ Không xây dựng cho học sinh thói quen tham gia tìm hiểu cách đọc bài.
	+ Học sinh chưa có thói quen đọc sách, truyện hoặc đọc bâng quơ mà không cần biết mình đã đọc gì, câu chuyện trên dạy ta điều gì.
	+ Có một số bài tập đọc khá dài ảnh hưởng đến thời gian luyện đọc trên lớp của học sinh.	
+ Nhiều giáo viên coi nhẹ giờ tập đọc, chú trọng nhiều đến việc luyện toán, luyện văn
Vì những lí do nêu trên mà việc dạy đọc và chất lượng đọc bị ảnh hưởng rất lớn đối với học sinh
	Đề tài nghiên cứu là “Rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 2” nhằm nâng cao hiệu quả của việc dạy học tập đọc cho học sinh lớp, nhằm rèn kỹ năng đọc thành tiếng, đọc thầm (đọc hiểu), đọc diễn cảm nhằm đề xuất một số phương pháp để nâng cao hiệu quả của việc dạy học tập đọc cho học sinh lớp 2 và để đạt được mục đích này tôi giải quyết một số nhiệm vụ sau:
+ Nghiên cứu cơ sở thực tiễn của việc dạy tập đọc cho học sinh lớp 2.
+ Đề xuất một số biện pháp tổ chức nhằm nâng cao hiệu quả của dạy học tập đọc cho học sinh lớp 2. 
C. PHẠM VI NGHIÊN CỨU: 
Phạm vi nghiên cứu: Để nắm bắt được kết quả trong quá trình nghiên cứu dạy phân môn tập đọc lớp 2 qua 2 khâu luyện đọc cho học sinh và hướng dẫn cho học sinh cảm thụ văn học. Tôi đã thực hiện nghiên cứu ở 2 lớp 22 và 23. 
D. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Trong quá trình thực hiện đề tài này tôi đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau: 
 1/ Phương pháp điều tra khảo sát thực tế dạy học ở khối 2.
2/ Phương pháp điều tra thực tế dự giờ.
3/ Phương pháp thực nghiệm dạy học.
4/ Phương pháp khảo sát thống kê, so sánh, phân tích tổng hợp. 
Phần II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
- Như đã trình bày thì việc dạy đọc cho học sinh là một việc làm rất cần thiết và quan trọng ở bậc tiểu học. Nhưng dạy như thế nào để mang lại hiệu quả cao, đồng đều đối với học sinh quả là một vấn đề không hề đơn giản. Ở đây người viết không có tham vọng lớn mà chỉ mong cải thiện những vướng mắc để giúp học sinh được tiến bộ dần lên trong quá trình học tập và rèn luyện của mình.
- Theo bản thân tôi để dạy đọc tốt phần đọc cho học sinh trước hết là giáo viên cần phải biết và nắm rõ đối tượng mà mình đang giảng dạy các em cần gì? Sai sót chỗ nào? Cần khắc phục những sai sót đó ra sao? (Chẳng hạn: học sinh yếu kém cũng như bệnh nhân đang mắc bệnh, bác sĩ cần kê đúng toa, cho đúng thuốc thì bệnh nhân mới thuyên giảm. Còn với những học sinh trung bình cũng như người bình thường cần tăng thể lực để cho sức khoẻ được tráng kiện hơn) nên bước đầu tiên tôi bắt tay vào việc rèn đọc là:
*Kiểm tra đánh giá phân loại học sinh.
 - Đầu năm học thông thường nhà trường tổ chức kiểm tra khảo sát chất lượng học sinh để có biện pháp bồi dưỡng và đánh giá học sinh. Nhưng thường các bài khảo sát của nhà trường đầu năm là bài kiểm tra viết ít chú trọng đến bài tập đọc, cho dù có cũng chỉ đánh giá ở thang điểm 5. Nhân dịp kiểm tra này tôi thảo luận cùng các đồng nghiệp cho học sinh khảo sát phần tập đọc một bài riêng với thang điểm 10 vừa lấy tài liệu cho khối vừa lấy cơ sở đánh giá kĩ năng đọc và có biện pháp rèn đọc kịp thời ngay từ đầu năm cho các đối tượng học sinh đọc tốt, khá, trung bình hoặc đọc yếu kém.	
- Về cơ bản tôi đã phân loại học sinh theo kĩ năng đọc theo các dạng sau:
+ Học sinh đọc yếu kém.
+ Học sinh đọc trung bình.
+ Học sinh đọc trên trung bình nhưng còn một số thiếu sót (ngắt nghỉ sai, có hướng đọc diễn cảm nhưng chưa chính xác).
+ Học sinh đọc khá tốt.
* Phương pháp rèn đọc cho học sinh đọc yếu kém:
- Học sinh đọc yếu thường có tâm lí chung là ngại đọc, lúng túng khi được gọi đọc hoặc kiểm tra đọc do vậy cần chú ý tới tạo tâm thế cho học sinh trước khi đọc: tư thế đọc của học sinh, đứng hoặc ngồi cần ngay ngắn, cầm sách bằng hai tay, sách phải được mở rộng, khoảng cách từ mắt đến tay phải từ 30 - 35cm. Khi thầy gọi đọc phải bình tĩnh, tự tin, không hấp tấp đọc ngay. 
 	Giáo viên cần giải thích cho học sinh hiểu khi đọc thành tiếng không phải để cho cô giáo, thầy giáo nghe mà cả lớp cùng nghe nên cần đọc đủ cho cả lớp nghe rõ. Nhưng cũng không có nghĩa là đọc quá to hoặc gào lên, ở điểm này giáo viên cần kiên nhẫn động viên các em luyện tập để chất lượng đọc ngày càng tốt hơn.
- Học sinh đọc yếu kém còn là những học sinh có kĩ năng đọc thành tiếng chưa đạt ở mức độ thứ nhất tức là mức độ đọc đúng. Chẳng hạn, học sinh đọc còn ê a ngắc ngứ, đọc lí nhí đọc còn sai nhiều ở chữ cái và âm tiết Tiếng Việt, chưa có khả năng đọc đúng các thể loại văn bản khác nhau.
- Học sinh dân tộc thường đọc chậm, thêm dấu, bỏ dấu (thêm dấu huyền hoặc bỏ dấu huyền, thêm dấu nặng) không đúng với văn bản đọc:
 Chẳng hạn: 
	 từ “trời tối” đọc là “chời tối”,
 “so sánh” đọc là “xo xánh”.
 “giã giò” đọc là “dả dò” 
	“Hòanh hành” đọc là “hoàn hành”
	“rõ ràng” đọc là “gõ gàng”
	“lăn tròn” đọc là “lăng tròn”
- Đối với dạng học sinh sai kiểu này tôi thường chú trọng đến việc luyện đọc và phát âm đúng. Tức là phải thường xuyên luyện theo mẫu (mẫu của thầy và mẫu của bạn), thông qua cách phát âm của giáo viên học sinh được trực tiếp quan sát và bắt chước theo, học sinh sẽ nhanh chóng học được cách phát âm đúng tiếng, đúng từ và tròn câu. 
 	Thông qua các tiết học như Luyện từ và câu (trong các tiết tìm từ đặt câu), Chính tả (trong phần tìm và viết lại từ dễ lẫn) hoặc trong các phần phân tích mẫu minh hoạ ngắn của các môn học tôi thường ưu tiên cho dạng học sinh này đọc và phân tích kĩ, sửa sai và nhắc nhỡ kịp thời để học sinh có cơ hội sửa chữa, những học sinh có tiến bộ tôi thường biểu dương để những học sinh khác học tập và có hướng phấn đấu, sửa sai.
 	Chẳng hạn, trong những bài tập đọc (Tuần 3 Tiết ) luyện từ và câu – Tập làm văn 2 tiết/ tuần.
Trong bài “Ông Mạnh thắng Thần Gió” Tập đọc Tuần 20 có các từ: rõ ràng, hòanh hành, dõng dạc.
- Sau khi học sinh có tiến bộ tôi tiếp tục ưu tiên luyện đọc cho học sinh thông qua các bài đọc dễ, có từ tương đối dễ đọc và có câu ngắn như các bài thơ, văn vần có câu ngắn dễ đọc và nâng dần độ khó ở giai đoạn sau.
 	+ Bài: SƯ TỬ XUẤT QUÂN
Sư tử bàn chuyện xuất quân/
Muốn sao cho khắp thần dân trổ tài/
Nhỏ to khỏe yếu muôn lòai/
Ai ai cũng được/ tùy tài lập công/
	+ Bài: ĐÀN GÀ MỚI NỞ
Con  ... ó hướng diễn đạt và biểu cảm đúng nội dung văn bản cần có sự chuẩn bị tốt bài đọc ở nhà, học sinh phải đọc trước nhiều. Em nào còn chưa theo kịp cần rèn luyện thêm sau tiết dạy.
* Rèn đọc cho những đối tượng học sinh có kĩ năng đọc khá tốt:
 	- Đối với dạng học sinh này tôi chú trọng nâng cao kĩ năng đọc hiểu và đọc diễn cảm.
	* Rèn đọc hiểu:
 	- Để nắm chắc, hiểu rõ nội dung văn bản cần,cảm nhận được văn bản thì cần rèn luyện kĩ năng đọc hiểu. Luyện đọc hiểu thường được thực hiện trong bước đọc thầm. Vì đọc thầm có ưu thế hơn đọc thành tiếng là có thể nhanh từ 1,5 - 2 lần, tất cả trí tuệ tập trung vào việc tiếp nhận và thông hiểu nội dung mà không cần chú ý đến việc phát âm.
 - Do đó, dạy đọc thầm chính là dạy đọc có ý thức, đọc hiểu. Kết quả của đọc thầm giúp học sinh hiểu nghĩa của từ, cụm từ, câu, đoạn, bài tức là toàn bộ những gì đọc được.
 - Tôi kết hợp chặt chẽ giữa việc tìm hiểu bài và việc luyện đọc. Hướng dẫn tìm hiểu bài đến đâu rèn đọc ngay đến đó. Không tách rời hai khâu này.
 Tôi cho 1 học sinh đọc thành tiếng đoạn 1 (cả lớp đọc thầm theo lần 1) sau đó đặt câu hỏi cho học sinh trả lời. Tương tự đối với đoạn 2, 3, 4 tôi đã kết hợp cho rèn đọc thầm được từ 2 lần và giải quyết song song cùng lúc việc rèn đọc và tìm hiểu bài.
	Bên cạnh đó để giúp học sinh đọc hiểu tốt tôi cũng chuẩn bị hệ thống câu hỏi để học sinh nêu lên được nội dung bài một cách khái quát, cách đọc bài. Tôi thường chú ý đến đến các câu hỏi để học sinh tìm hiểu nghĩa của từ, đặt câu để làm rõ nghĩa từ tìm các từ gần nghĩa cùng nghĩa, trái nghĩa..
 + Ví dụ: Dạy bài “Tiếng chổi tre” 
 có câu: Những đêm đông
 Khi cơn giông 
 Vừa tắt.
- Em hiểu từ vừa tắt có nghĩa là gì? (không để ý đến) và tôi cho học sinh tập đặt câu với từ đó
- Có làm được như vậy từ việc hiểu nghĩa của từ kết hợp hiểu nghĩa của câu và toàn bài từ đó học sinh có thể tóm lược được nội dung, ý đoạn hoặc cả bài đọc mà các em vừa đọc.
- Ngoài những giờ học trên lớp, những giờ đọc truyện, đọc sách ở thư viện tôi cũng thường xuyên nhắc nhở học sinh cần phải luyện đọc thầm, không nên đọc thành tiếng khi không có yêu cầu.
	* Rèn đọc diễn cảm:
	- Đọc diễn cảm thể hiện năng lực đọc ở trình độ cao chỉ thực hiện được khi đã đọc đúng và đọc lưu loát. Đó là việc đọc thể hiện kĩ năng làm chủ ngữ điệu, chỗ ngừng, cường độ..để biểu đạt đúng những ý nghĩ tình cảm mà tác giả muốn gửi gắm trong bài đọc và cũng là thể hiện sự thông hiểu của người đọc đối với tác phẩm. Điều này thật ra chưa có nhiều học sinh ở bậc tiểu học làm được, vì vậy việc rèn cho học sinh kĩ năng này là một việc làm hết sức cần thiết.
	Phần III: BIỆN PHÁP TIẾN HÀNH
 	Qua thống kê kết quả khảo sát đầu năm của các năm học gần đây mà tôi và các đồng nghiệp đã đảm nhận như sau:
Năm học
TSHS
Khối 1
XẾP LOẠI ĐẦU NĂM QUA KIỂM TRA KĨ NĂNG ĐỌC
Đọc tốt
Đọc khá
Đọc TB
Đọc yếu
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
2007-2008
82
18
22
30
36.7
20
24.4
14
16.9
2008-2009
75
16
21.3
22
29.3
24
32.0
13
17.4
2009-2010
70
13
18.6
23
32.9
22
31.4
12
17.1
* Thống kê khảo sát đầu năm học trong 3 năm gần đây của lớp tôi đã dạy:
Năm học
TSHS
Lớp
2
XẾP LOẠI ĐẦU NĂM QUA KIỂM TRA KĨ NĂNG ĐỌC
Đọc tốt
Đọc khá
Đọc TB
Đọc yếu
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
2007-2008
30
06
20
07
23.3
11
36.7
06
20
2008-2009
27
04
14.8
05
18.5
13
48.2
05
18.5
2009-2010
33
08
24.2
05
15.2
16
48.5
04
12.1
 	Về những bài đọc đã quy định ngữ điệu của nó tôi không áp đặt sẵn giọng đọc bài mà cho học sinh tự đọc, nêu cách đọc trên cơ sở hiểu từ, hiểu nghĩa. Tôi chỉ là người lắng nghe và sửa cách đọc của từng học sinh. Bên cạnh đó tôi còn luôn khen ngợi học sinh đọc tốt kích thích động viên học sinh khác cố gắng đọc diễn cảm như bạn.
 	- Ví dụ: Cứ cuối mỗi giờ tôi lại hỏi học sinh:
+ Em thích đoạn nào trong bài nhất, em hãy đọc cho cô và các bạn cùng nghe.
+ Em hãy đọc diễn cảm cả bài văn (hoặc bài thơ)
+ Hoặc tổ chức các hình thức thi đọc diễn cảm, đọc phân vai, đóng kịch(đối với các bài có nhiều lời thoại)
 Làm được như vậy sẽ có nhiều em thích tham gia đọc diễn cảm.
- Đọc diễn cảm chỉ có thể thực hiện được khi học sinh đã hiểu thấu đáo bài đọc. Đọc diễn cảm yêu cầu đọc đúng giọng vui, buồn, giận dữ, trang nghiêmphù hợp với từng ý của bài đọc, phù hợp với kiểu câu, thể loại, đọc có cảm xúc cao, biết nhấn giọng ở những từ ngữ biểu cảm, phân biệt lời nhân vật, lời tác giả.
Ví dụ: như khi đọc 
+ Đọc bài: Bà cháu - Tập đọc 2 cần có giọng đọc thể hiện tình cảm nhẹ nhàng, yêu thương thể hiện được tình yêu thương của cháu với bà.
+ Đọc bài: Tiếng chổi tre: cần phải thể hiện giọng đọc mạnh mẽ diễn tả sự chịu khó và bền bĩ của chị lao công
Tóm lại: Đọc hiểu và đọc diễn cảm là một kĩ năng rất cần thiết cho học sinh khi chuẩn bị bước lên những bậc học cao hơn cũng như khi vào đời cần có để sử dụng trong cuộc sống, nên khi rèn kĩ năng này người học cần có sự cố gắng nổ lực cao, cần có ở người dạy một kĩ năng đọc tốt, sự nhiệt thành và một chút năng khiếu thì việc rèn đọc hiểu cho học sinh sẽ thuận lợi hơn rất nhiều.
	Phần IV: KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
1. Với bản thân.
 - Tôi thấy những cách làm mà tôi nêu ra trên đây là đã tìm được hướng đúng, cách làm đúng cho việc dạy tập đọc, dạy đúng đặc trưng bộ môn, tôi rất thoải mái, tự tin khi dạy phân môn tập đọc, hứng thú khi rèn đọc cho học sinh.
- Các tiết dạy tập đọc không bị biến thành giờ giảng văn, thầy trò nghe nặng nề khô khan như trước nữa.
2. Đối với học sinh:
- Học sinh trong lớp đạt từ trung bình trở lên. Các đối tượng học sinh đều tham gia đọc rất tự tin mà không còn e ngại khi đọc trước lớp, e dè khi đọc diễn cảm ( kể cả những lúc có đông người dự).
- Không còn trường hợp đọc qua loa cho xong chuyện. Các em đã thấy được giá trị của việc đọc và ham thích đọc sách, truyện,
- Kết quả đạt được ở cuối các năm học như sau:
Năm học
TSHS
lớp 2
XẾP LOẠI CUỐI NĂM QUA KIỂM TRA KĨ NĂNG ĐỌC
Đọc tốt
Đọc khá
Đọc TB
Đọc yếu
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
2007-2008
30
9
30.0
9
30.0
12
40.0
0
0
2008-2009
27
7
26.0
10
37.0
10
37.0
0
0
2009-2010
33
11
33.3
10
30.3
10
30.3
2
6.06
* Ghi chú: Kết quả năm học 2009 - 2010 là kết quả kiểm tra phần đọc của cuối học kì I.
Phần V: BÀI HỌC KINH NGHIỆM
	- Là một giáo viên có hơn mười năm liên tục được phân công dạy lớp 2, tôi nhận thấy kinh nghiệm dạy học là vấn đề then chốt cho một giáo viên đứng lớp có thể dạy đạt hiệu quả cao.
- Những năm đầu cũng gặp không ít khó khăn, lúng túng khi phải đối mặt với những tiết dạy tập đọc (đặc biệt là khi có Ban giám hiệu hoặc cán bộ chuyên môn Phòng GD thanh kiểm tra). Nhưng khi đã có một thời gian nhất định và đã xác định chắc chắn con đường nghề nghiệp cho bản thân tôi đã yên tâm công tác, cố gắng làm tốt công việc được giao, rèn giũa và tích lũy kinh nghiệm. Trước hết là để đảm bảo công việc cho bản thân và tròn nghĩa vụ của những người đi trước đối với thế hệ con em mà xã hội đã giao cho mình một trọng trách là “giáo dục con người”.
	- Chúng ta đã biết tập đọc là phân môn có tính công cụ. Là công cụ để học tốt các môn học khác, là công cụ để chiếm lĩnh tri thức. Mục đích của dạy đọc cho học sinh tiểu học là đọc thông và đọc hiểu. Do đó người giáo viên cần phải có tính kiên trì, cẩn thận chăm chút trong việc rèn luyện cho học sinh, mới mong có hiệu quả. Qua việc dạy đọc bản thân tôi rút ra một số kinh nghiệm như sau: 
+ Lập sổ tay ghi chép những vướng mắc tập đọc của giáo viên và học sinh ( ghi ngay những khó khăn và thuận lợi của giáo viên gặp phải trong suốt quá trình giảng dạy) để có biện pháp phát huy hoặc khắc phục.
+ Dạy tập đọc gắn với sự phát triển của tư duy nên tránh áp đặt máy móc.
+ Học tập và ghi nhận những góp ý của các bạn đồng nghiệp, Ban giám hiệu.
+ Luyện đọc và củng cố thường xuyên các kĩ năng đọc thông trong tất cả các tiết học cũng như trong các bộ môn khác nữa.
+ Giáo viên luôn quan tâm, động viên khích lệ học sinh trong quá trình luyện đọc( nhất là những học sinh yếu).
+ Chịu khó học tập rèn luyện so sánh sự giống nhau và cái khác nhau giữa cái cũ và cái mới, qua các đợt tập huấn cải cách, để đối chiếu tình hình của lớp mà áp dụng cho phù hợp.
+ Tạo không khí thi đua trong việc đọc, giữa học sinh với học sinh, đánh giá đúng chuẩn, khen thưởng kịp thời ( khen thưởng đột xuất và định kỳ)
+ Tham khảo các tài liệu, sách hướng dẫn.
	VI. KẾT LUẬN
 	- Để học đọc, dạy đọc tốt cũng bao gồm nhiều yếu tố như trí tuệ, năng khiếu, môi trường, Tuy nhiên việc dạy đọc là nhiệm vụ cả đời đối với giáo viên tiểu học. Nên người giáo viên tiểu học muốn dạy tốt phần đọc cho các em theo tôi giáo viên cần phải học đọc thật hay, thật tốt từ bạn bè, đồng nghiệp, từ các kênh thông tin xã hội, những người đi trước, trên đài phát thanh, đài truyền hình, để hoàn thiện mình qua đó làm mẫu cho học sinh.
 - Hai là phải nắm vững phương pháp, kĩ năng, đối tượng mình cần truyền đạt để có biện pháp tối ưu nhất.
- Đọc ngày nay đã trở thành một nét văn hóa trong cuộc sống cộng đồng người Việt (văn hóa đọc), do đó việc rèn đọc cho học sinh là rất quan trọng, nên việc rèn đọc cho học sinh, chúng ta nên trân trọng và không quá nóng vội, mà phải bình tĩnh ghi nhận sự tiến bộ của học sinh vì việc học tập, rèn luện là công việc của cả đời.
- Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ của bản thân mà tôi đã áp dụng vào việc dạy đọc. Tôi rất mong muốn sự đóng góp ý kiến của các thầy cô, bạn đồng nghiệp để bản thân tôi được học thêm những kinh nghiệm về việc rèn đọc cho học sinh đạt hiệu quả cao hơn.
Minh Hòa ngày 24 tháng 01 năm 2011
 Người thực hiện
	Nguyễn Thị Thu Ba
ĐÁNH GIÁ VÀ XẾP LOẠI CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC CÁC CẤP
.
MỤC LỤC
I
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Trang 1
A
LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trang 1 – 2 
B
MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Trang 3 – 4 
C
PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Trang 5
D
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Trang 5
II
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Trang 6 - 13
III
BIỆN PHÁP TIẾN HÀNH
Trang 14 - 15
IV
KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
Trang 16
V
BÀI HỌC KINH NGHIỆM - KẾT LUẬN
Trang 17 – 18 
VI
KẾT LUẬN
Trang 19
PHẦN ĐÁNH GIÁ CỦA HĐKH CÁC CẤP
Trang 20 – 22 
MỤC LỤC
Trang 23

Tài liệu đính kèm:

  • docRen ky nang doc cho hoc sinh Lop Hai.doc