Trong thời kì công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước với sự phát triển về mọi mặt đòi hỏi phải đổi mới mục tiêu giáo dục nhằm đào tạo ra một lớp người năng động, sáng tạo nhằm đáp ứng cho xã hội nguồn nhân lực phục vụ đắc lực cho các mục tiêu kinh tế của xã hội. Trước tình hình trên đòi hỏi phải có một lớp người lao động có đủ năng lực, có tài, có đức để xứng đáng là chủ nhân tương lai của đất nước. Qua các kì Đại hội Đảng toàn quốc, trong các văn kiện Đại hội Bộ Giáo dục và Đào tạo đều nhấn mạnh rằng: “Cần đổi mới phương pháp giáo dục cho phù hợp với sự phát triển của đất nước, để đào tạo ra những con người năng động sáng tạo có năng lực giải quyết vấn đề”
Việc đổi mới mục tiêu giáo dục đã thực hiện thông qua việc đổi mới chương trình và thay sách giáo khoa, thực hiện chuẩn kiến thức kĩ năng, kết hợp giáo dục kĩ năng sống. Nhằm đổi mới căn bản về phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của người học.
A . ĐẶT VẤN ĐỀ I . LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI: Trong thời kì công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước với sự phát triển về mọi mặt đòi hỏi phải đổi mới mục tiêu giáo dục nhằm đào tạo ra một lớp người năng động, sáng tạo nhằm đáp ứng cho xã hội nguồn nhân lực phục vụ đắc lực cho các mục tiêu kinh tế của xã hội. Trước tình hình trên đòi hỏi phải có một lớp người lao động có đủ năng lực, có tài, có đức để xứng đáng là chủ nhân tương lai của đất nước. Qua các kì Đại hội Đảng toàn quốc, trong các văn kiện Đại hội Bộ Giáo dục và Đào tạo đều nhấn mạnh rằng: “Cần đổi mới phương pháp giáo dục cho phù hợp với sự phát triển của đất nước, để đào tạo ra những con người năng động sáng tạo có năng lực giải quyết vấn đề” Việc đổi mới mục tiêu giáo dục đã thực hiện thông qua việc đổi mới chương trình và thay sách giáo khoa, thực hiện chuẩn kiến thức kĩ năng, kết hợp giáo dục kĩ năng sống. Nhằm đổi mới căn bản về phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của người học. Điều quan trọng ở đây là việc đổi mới trong giáo dục Tiểu học phải mang lại lợi ích thiết thực cho học sinh nhằm thực hiện hai phương diện: Tinh thần và phát triển tư duy vừa sức, phù hợp với tâm lí học sinh tiểu học.Một trong những phương pháp chủ yếu để đạt được mục đích trên là gây cho học sinh hứng thú học tập, tạo niềm tin, niềm vui bằng cách lôi cuốn các em vào những trò chơi toán học hấp dẫn, phù hợp với trình độ nhận thức.Chính vì vậy người giáo viên ở các trường Tiểu học hiện nay đã không ngừng tìm tòi học hỏi tích luỹ những phương pháp có thể áp dụng một cách thuận tiện nhất,dễ hiểu, dễ làm mang lại hiệu quả cao, phù hợp với nhu cầu phát triển hiện nay. Ngày nay trên thế giới mục đích của giáo dục thường được chú trọng các vấn đề: học để biết, học để làm, học để tự khẳng định mình và học để cùng chung sống. Thời gian qua bậc Tiểu họcViệt Nam đã thực hiện những thay đổi trong toàn bộ quá trình dạy học nhằm đáp ứng nhu cầu của sự phát triển đất nước và hội nhập vào sự tiến bộ chung của khu vực và Thế giới. Trong đó “Học mà chơi - chơi mà học” là một trong những phương pháp giúp cho học sinh tích cực tham gia vào hoạt động thực hành rèn luyện kiến thức, đồng thời tiếp thu kiến thức một cách tự giác và hứng thú. Thông qua trò chơi học tập học sinh được phát triển cả về trí tuệ, thể lực, nhân cách , giúp cho việc học tập nhẹ nhàng hơn. Đồng thời đáp ứng được hai nhu cầu đó là “ nhu cầu vui chơi và nhu cầu học tập” đây là một hình thức đang được xã hội quan tâm. Vì học sinh Tiểu học là “Tiềm năng phát triển” nên người giáo viên phải biết sáng tạo, sử dụng hài hoà các phương pháp khác nhau để giúp học sinh lĩnh hội kiến thức vào thực tế, tức là phát triển ở học sinh khả năng giải quyết những vấn đề do cuộc sống đặt ra. Môn toán là một trong nhưng môn học góp phần quan trọng đào tạo nên những con người phát triển toàn diện trong giờ học toán người giáo viên chỉ giảng dạy theo tài liệu có sẵn, dạy rập khuôn, máy móc làm cho học sinh học tập một cách thụ động .Nếu dạy như vậy thì việc học tập của học sinh sẽ diễn ra đơn điệu, tẻ nhạt và kết quả học tập sẽ không cao. Xuất phát từ vai trò của mảng kiến thức toán lớp 3. Thời gian dành cho môn toán chiếm một phần lớn trong mối quan hệ với các môn học khác. Chương trình toán lớp 3 được chia thành 05 mạch kiến thức: Số học và yếu tố đại số, đại lựợng và đo đại lượng, yếu tố hình học, yếu tố thống kê, các dạng toán giải .Các trò chơi được xây dựng từ các dạng bài tập có chọn lọc của các tiết học trong 05 mạch kiến thức trên nhưng có thể mang những cái tên gợi cảm, gây hứng thú, góp phần hình thành , củng cố hoặc hệ thống kiến thức . Từ những lí do trên cộng với kinh nghiệm đứng lớp. Tôi đã thường xuyên áp dụng trò chơi vào các tiết học Toán.Tôi thấy những trò chơi ấy thật sự có hiệu quả cao trong giờ học, lại dễ tổ chức, dễ thực hiện, tiết học lại sôi nổi gây hứng thú cho học sinh. Vì thế cho nên tôi đã chọn đề tài: “Một số trò chơi nhằm gây hứng thú học toán cho học sinh lớp 3” II . MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI: Góp phần đổi mới phương pháp dạy học môn toán ở tiểu học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo của học sinh, tăng cường hoạt động cá thể phối hợp với học tập giao lưu. Hình thành và rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Góp phần gây hứng thú học tập môn toán cho học sinh, một môn học được coi là khô khan, hóc búa thì việc ra các trò chơi toán học nhằm mục đích để các em học mà chơi - chơi mà học. Trò chơi Toán học không những chỉ giúp các em lĩnh hội được tri thức mà còn giúp các em củng cố và khắc sâu tri thức đó. III. NHIỆM VỤ VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU: Nhiệm vụ: Tìm hiểu các trò chơi học tập toán học lớp 3. Tìm hiểu về thực trạng tài liệu trò chơi toán học 3. 2. Phạm vi nghiên cứu: Đối tượng: Học sinh lớp 3 Tài liệu: Sách giáo khoa toán, sách hướng dẫn giáo viên, sách trò chơi, sách đổi mới phương pháp dạy học ở Tiểu học IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: Nghiên cứu tài liệu: Đọc các tài liệu sách, báo.. có liên quan đến nội dung đề tài. Đọc SGK, sách giáo viên, các loại sách tham khảo.. Nghiên cứu thực tế . Dự giờ, trao đổi ý kiến với đồng nghiệp về nội dung các trò chơi toán học. Tổng kết rút kinh nghiệm sư phạm để kiểm tra tính khả thi của đề tài. B . NỘI DUNG CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÍ LUẬN I . VỊ TRÍ MÔN TOÁN TRONG TRƯỜNG TIỂU HỌC: Bậc Tiểu học là bậc học góp phần quan trọng trong việc đặt nền móng cho việc hình thành và phát triển nhân cách của học sinh. Môn toán cũng như những môn học khác cung cấp những tri thức khoa học ban đầu, những nhận thức về thế giới xung quanh nhằm phát triển năng lực nhận thức, hoạt động tư duy và bồi dưỡng tình cảm đạo đức tốt đẹp của con người. Môn toán ở trường tiểu học là một môn độc lập, chiếm phần lớn thời gian trong chương trình học của trẻ. Môn toán có tầm quan trọng to lớn, nó là một môn khoa học nghiên cứu có hệ thống, phù hợp với hoạt động nhận thức tự nhiên của con người. Môn toán có khả năng giáo dục lớn nhất trong việc rèn luyện phương pháp suy nghĩ, phương pháp suy luận lôgic, thao tác tư duy cần thiết để con người phát triển toàn diện, hình thành nhân cách tốt đẹp cho con người lao động trong thời đại mới. II. ĐẶC ĐIỂM TÂM SINH LÍ CỦA HỌC SINH TIỂU HỌC: Ở lứa tuổi tiểu học cơ thể trẻ đang thời kì phát triển hay nói cụ thể là các hệ cơ quan chưa hoàn thiện vì thế sức dẻo dai của cơ thể còn thấp nên trẻ không thể làm lâu một cử động đơn điệu, dễ mệt nhất là khi hoạt động quá mạnh và ở môi trường thiếu dưỡng khí . Học sinh tiểu học nghe giảng rất dễ hiểu nhưng cũng sẽ quên ngay khi chúng không tập trung cao độ.Vì vậy người giáo viên phải tạo ra hứng thú trong học tập và phải thường xuyên được luyện tập. Học sinh tiểu học rất dễ xúc động và thích tiếp xúc với một sự vật, hiện tượng nào đó nhất là những hình ảnh gây cảm xúc mạnh. Trẻ hiếu động, ham hiểu biết cái mới nên dễ gây cảm xúc mới song các em chóng chán. Do vậy trong dạy học giáo viên phải sử dụng nhiều đồ dùng dạy học, đưa học sinh đi tham quan, đi thực tế, tăng cường thực hành, tổ chức các trò chơi xen kẽ để củng cố khắc sâu kiến thức. III . NHU CẦU VỀ ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC: Học sinh tiểu học có trí thông minh khá nhạy bén sắc sảo, có óc tưởng tượng phong phú. Đó là tiền đề tốt cho việc phát triển tư duy toán học nhưng rất dễ phân tán, rối trí nếu bị áp đặt, căng thẳng, quá tải. Muốn cho học sinh đạt hiệu quả thì người giáo viên phải đổi mới phương pháp dạy học trên cơ sở “Lấy học sinh làm trung tâm” giáo viên là người định hướng, tổ chức các tình huống học tập kích thích óc tò mò và tư duy độc lập. Muốn cho các em học được trước hết giáo viên phải nắm chắc nội dung của mỗi bài và lựa chọn, vận dụng các phương pháp sao cho phù hợp, bài nào thì sử dụng các phương pháp trực quan, thuyết trình, trò chơi hoặc bài nào thì sử dụng phương pháp giảng giải, kiểm tra, thí nghiệm nhưng phải chú ý đến đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi học sinh. IV . TÁC DỤNG CỦA TRÒ CHƠI: Hoạt đông vui chơi là hoạt động mà động cơ của nó nằm trong chính quá trình hoạt động trong bản thân trò chơi chứ không nằm ở kết quả chơi. Trò chơi là loại phổ biến của hoạt động vui chơi là chơi theo luật, luật của trò chơi chính là quy tắc định rõ mục đích, kết quả và yêu cầu hành động của trò chơi. Trò chơi học tập là trò chơi mà luật của nó bao gồm các qui tắc gắn với kiến thức kĩ năng có được trong hoạt động học tập, gắn với nội dung bài học, giúp học sinh khai thác vốn kinh nghiệm của bản thân để chơi, thông qua chơi học sinh được vận dụng các kiến thức kĩ năng đã học vào các tình huống trò chơi và do đó học sinh được luyện tập thực hành củng cố, mở rộng kiến thức, kĩ năng đã học. Như vậy trò chơi học tập các kĩ năng môn toán được đưa vào trò chơi. Chơi là một nhu cầu cần thiết đối với học sinh Tiểu học, có thể nói nó quan trọng như ăn, ngủ, học tập trong đời sống các em. Chính vì vậy các em luôn tìm mọi cách và tranh thủ thời gian trong mọi điều kiện để chơi. Được chơi các em sẽ tham gia hết sức tự giác và chủ động. Khi chơi các em biểu lộ tình cảm rất rõ ràng như niềm vui khi chiến thắng và buồn bã khi thất bại. Vui mừng khi thấy đồng đội hoàn thành nhiệm vụ, bản thân các em thấy có lỗi khi không làm tốt được nhiệm vụ của mình. Vì tập thể mà các em khắc phục khó khăn, phấn đấu hết khả năng để mang lại kết quả cho tổ, nhóm trong đó có mình. Đây chính là đặc tính thi đua rất cao của các trò chơi. Vì vậy khi tham gia các trò chơi, học sinh thường tập trung hết khả năng sức lực, tập trung sự chú ý, trí thông minh và sáng tạo của mình. Trò chơi học tập làm thay đổi hình thức hoạt động của học sinh, tạo ra bầu không khí dễ chịu thoải mái trong giờ học,giúp học sinh tiếp thu kiến thức một cách tự giác tích cực.Giúp học sinh rèn luyện củng cố kiến thức đồng thời phát triển vốn kinh nghiệm được tích luỹ qua hoạt động chơi. Trò chơi học tập rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo, thúc đẩy hoạt động trí tuệ, nhờ sử dụng trò chơi học tập mà quá trình dạy học trở thành một hoạt động vui và hấp dẫn hơn, cơ hội học tập đa dạng hơn. Trò chơi không ... i dung ghi giống nhau. Một số mảnh giấy ghi kết quả tương ứng. Ví dụ: Viết số thích hợp vào chổ chấm: .=1000 +900+50+2 ; 7550 = +..+. .=9000+900+90+9 ; 7050 = +..+. = 9000+100+50+2 ; 1095 =.+..+ 8001 = 8000 +. .. = 7000+500 8100 = 8000 + 9009 = 9000 +. 1 7000 +500 +50 7000+50 9152 1952 7500 1000 + 90 +5 9 100 9999 - Học sinh chuẩn bị phấn Thời gian: 3-5 phút ¯Cách tổ chức: - Chơi theo kiểu đồng đội, chia lớp thành hai nhóm, mỗi nhóm chọn đội chơi (5-10 em),các em còn lại cổ vũ cho đội của mình. Hai đội xếp thành 02 hàng dọc. Đội trưởng lên nhận và phát cho mỗi bạn trong đội của mình một mảnh giấy ghi kết quả tương ứng với nội dung ghi trên bảng.Các em đọc,quan sát so sánh tìm vị trí của mình cần điền (1-2phút). - Khi giáo viên có hiệu lệnh bắt đầu chơi, yêu cầu các bạn trong đội lên điền kết quả của mình vào bảng phụ treo trên bảng lớp (phần bài của đội mình). Bạn thứ nhất điền xong quay xuống nhanh chóng và vỗ vào tay bạn thứ hai, bạn thứ hai lên điền.. Cứ như thế tiếp tục cho đến hết. Học sinh dưới lớp và giáo viên thống kê, đánh giá điểm. Mỗi kết quả đúng ghi 10 điểm. Đội nào nhiều điểm sẽ thắng. Trong trường hợp cả hai đội đều điền đúng kết quả thì đội nào nhanh hơn,trình bày đẹp hơn sẽ thắng. 12 . Trò chơi: “BÁC MẶT NẠ THÔNG THÁI” ¯Mục đích: - Giúp học sinh củng cố lại thứ tự thực hiện phép tính trong biểu thức. Rèn luyện kĩ năng quan sát, khả năng diễn đạt thành thạo, tự tin. ¯Chuẩn bị: Giáo viên chuẩn bị 04 biển hình mặt nạ, một bên có hình mặt cười, một bên có hình mặt mếu, 04 bảng con. Chọn 03 đội chơi, mỗi đội khoảng 03 em. ¯Cách tổ chức: Chơi thi đua giữa các đội Giáo viên xuất hiện từng bảng con.Trên mỗi bảng con có ghi cách thực hiện một biểu thức. 30+60x2=90x2 30+60x2=30+120 =180 =150 282-100:2=182:2 282-100:2=282-50 =91 =232 Mỗi lần giáo viên xuất hiện một bảng con, các đội quan sát nội dung .Khi giáo viên có tiến hiệu nếu đội nào thấy thực hiện đúng thì giơ mặt cười nếu sai thì giơ mặt mếu. Giáo viên có thể nêu câu hỏi chấp vấn thêm để các em nhớ lại thứ tự thực hiện phép tính trong một biểu thức như vì sao đội em cho là đúng? Hoặc căn cứ vào đâu mà đội em cho là sai? Giáo viên cũng đưa ra đáp án bằng cách quay mặt nạ. Mỗi lần trả lời đúng, quay mặt nạ đúng thì được 10 điểm.Nếu quay mặt nạ đúng song chưa trả lời được câu hỏi phụ của giáo viên thì bị trừ đi 1-2 điểm. Đội nào nhiều điểm đội đó sẽ thắng. Trò chơi được sử dụng ở bài “Tính giá trị của biểu thực (tt)” bài 2 trang 80, có thể sử dụng ở bài “Luyện tập chung” bài số 4 trang 83. 13 . Trò chơi: VỀ ĐÚNG NHÀ MÌNH Mục đích: Ôn tập về các công thức tính chu vi, công thức tính diện tích các hình (toán 3). Thời gian chơi: 5-7 phút. Chuẩn bị: Các miếng hình vẽ có hình ngôi nhà vẽ hình chữ nhật, hình vuông, hình tứ giác, hình tam giác. Các miếng bìa có ghi các công thức sau: Chu vi: a x 4 Chu vi: ( a + b) x 2 Diện tích: a x a Diện tích: a x b Cách chơi: Mỗi lần cho 4 học sinh cùng chơi, mỗi em đeo một miếng bìa trước ngực ghi các công thức đã chuẩn bị ở trên, rồi tập hợp thành hàng dọc, vừa đi vừa hát: “ trời nắng, trời nắng thỏ đi tắm nắng, vươn vai vươn vai thỏ rung đôi tai”. Khi nghe giáo viên hô: “Mưa to rồi, mau về nhà thôi” thì lập tức các “ chú thỏ” phải về đúng nhà của mình ( Tức ngôi nhà có hình công thứcmình đang đeo). Luật chơi: Ai nhanh nhất được phong tặng: “ Chú thỏ nhanh nhất”, còn ai chậm thì bị phạt biểu diễn một trò vui. * Ta thấy rằng: Ở lớp ba các em bắt đầu được học về chu vi, diện tích hình vuông, hình chữ nhật tuy nhiên qua quá trình giảng dạy tôi nhận thấy do đặc điểm lứa tuổi của các em nên vẫn còn có rất nhiều em hay quên hoặc nhầm lẫn công thức giữa các hình, điều đó ảnh hưởng rất nhiều đến kết quả học tập của các em nhất là sau này lên các lớp trên các em được tiếp xúc với nhiều công thức, nhiều dạng hình. Bởi vậy, khi dạy về hình học tôi chú ý củng cố vững chắc kiến thức cho các em bằng cách tổ chức cho các em chơi các trò chơi học tập biến những công thức tính khô khan mà các em ngại học, ngại nhớ thành những trò chơi thú vị và kết quả vượt ngoài sự mong đợi của tôi. Sau bài học các em nhớ vanh vách các qui tắc về tính chu vi các hình đã học, không những thế các em về nhà còn sưu tầm các câu đố về tính chu vi, diện tích các hình để đến lớp đố bạn. Ví dụ như: Diện tích chữ nhật là gì? Lấy dài..tức thì có ngay. Chu vi chữ nhật dễ thay! Lấy ..nhân 2 là thành. Thế còn diện tích hình vuông? Lấy cạnh. Tức thì hiện ra. III . KẾT QUẢ: Nhờ áp dụng trò chơi trên vào giảng dạy,cho nên học sinh lớp 3/3 mà tôi đang phụ trách đã có nhiều chuyển biến rõ rệt. -100% học sinh thích học môn toán -Qua các lần kiểm tra, đa số học sinh đạt điểm khá giỏi, mà đặc biệt hơn là không có học sinh nào dưới trung bình. Với những kết quả trên tôi thấy rất vui mừng phấn khởi, hài lòng. Tuy đạt kết quả như vậy, nhưng tôi không lấy làm điểm dừng mà còn phát huy hơn nữa, nhằm tìm ra nhiều điểm mới, để nâng cao hiệu quả trong giảng dạy cho bản thân, cho đồng nghiệp trong khối cùng đạt đến mục tiêu chung. C. KẾT LUẬN I . ƯU ĐIỂM CỦA VIỆC TỔ CHỨC TRÒ CHƠI HỌC TẬP TRÊN: 1 . Về phía học sinh : Tổ chức trò chơi như đã nêu trên khi dạy bài mới hay khi ôn tập là tạo điều kiện và là động cơ để học sinh học tập một cách tích cực, chủ động, tự giác,sáng tạo và nhận thức sâu sắc. Thông qua trò chơi học tập xây dựng được cho mình thói quen tìm hiểu kĩ càng có mục đích, có khoa học các vấn đề xung quanh, chuẩn bị tốt bài học trước khi lên lớp để có lời trình bày hợp lí hấp dẫn người nghe. Thông qua trò chơi giúp học sinh phát huy năng lực, năng khiếu mà các em chưa thể hiện được ở các môn khác. Ví dụ: Năng lực về phân tích, quan sát, xử lí tình huống hay năng khiếu vẽ, óc sáng tạo hay một số đồ dùng quen thuộc. Học sinh được trình bày những điều “mình tự khám phá” nên cảm thấy vinh dự trước các bạn, đó cũng là một động cơ để khuyến khích, khêu gợi cho các em có ý thức học tập, làm việc tốt hơn. Khi cùng nhau chơi, học sinh mạnh dạn hỏi bạn những vấn đề chưa rõ ràng (mà không dám hỏi giáo viên) do đó những nội dung học tập đưa ra được một cách đầy đủ, cặn kẽ, cụ thể hơn. Khi học bằng cách “chơi các trò chơi” học sinh rất chăm chú (vì thích chơi và hiếu kì) do đó hình ảnh, những lời nói, những kiến thức được đề cập đến giúp các em khắc sâu hơn. Đôi khi học sinh đưa ra các ý tưởng, những kinh nghiệm sát với thực tế mà ở sách giáo khoa chưa đề cập đến và như vậy qua trò chơi học sinh được trang bị thêm kiến thức sống. Ví dụ: Mỗi tuần lễ có 7 ngày. Hỏi 5 tuần lễ thì có bao nhiêu ngày? Hoặc : Mỗi tuần ba đi làm 5 ngày.Hỏi 4 tuần ba đi làm bao nhiêu ngày? Trò chơi còn khắc phục tính nhát của học sinh, tập cho học sinh trình bày những vấn đề trước tập thê đông người. 2 . Về phía giáo viên: Giáo viên không phải truyền đạt nhiều kiến thức mà chỉ cần hướng dẫn tổ chức và là cố vấn cho học sinh trong trò chơi thực tập. Suốt thời gian học sinh chơi giáo viên chỉ cần theo dõi, ghi nhận mặt tốt của học sinh, bổ sung thiếu sót cho các em. Qua trò chơi giáo viên có điều kiện kiểm tra, nắm được tình hình học tập của học sinh một cách nhanh và chính xác. Giáo viên có thêm một hình thức giảng dạy mới ngoài các hình thức học nhóm, học cá nhân, học cả lớp. II . BÀI HỌC KINH NGHIỆM: Qua vận dụng thực tế, tôi thấy nhiều giáo viên vận dụng tốt vào khâu chuẩn bị, hướng dẫn và tổ chức cho các em chơi các trò chơi trên một cách thường xuyên, các em sẽ thực hiện rất tốt, giờ dạy sôi nổi, hứng thú và đạt hiệu quả rõ rệt. Mọi hoạt động trong giờ học đều do học sinh làm chủ. Qua đó khích lệ các em phát triển năng khiếu, năng lực, hạn chế tính ỷ lại, nhút nhác nơi học sinh. Trò chơi học tập là một loại hình hoạt động vui chơi có nhiều tác dụng trong giờ học của học sinh Tiểu học,. Trò chơi học tập tạo không khí vui tươi , hồn nhiên, sinh động trong giờ học. Nó kích thích được trí tưởng tượng, tò mò, ham hiểu biết ở trẻ. Việc tổ chức trò chơi trong các giờ học toán là vô cùng cần thiết.Các trò chơi này còn giúp các em sáng tạo hơn trong cuộc sống, vận dụng hiểu biết của mình vào giờ học một cách phù hợp.Giúp các em tự tin hơn ,có cơ hội tự khẳng định mình và tự đánh giá nhau trong học tập.Tình cảm bạn bè củng chuyển biến tốt hơn qua trò chơi. Việc ghi điểm tốt khi học sinh chơi cũng đạt hiệu quả hơn. Mỗi giờ học giáo viên có thể kiểm tra, đánh giá, cho điểm ít nhất 1/3 lớp . Sau khi tổ chức chơi, giáo viên bảo quản tốt các dụng cụ, tranh ảnh đã chuẩn bị có thể dùng nhiều năm. Để tổ chức trò chơi nói trên giáo viên cần chuẩn bị chu đáo trước khi lên lớp, tự đề ra các tình huống sư phạm để có thể ứng xử nhanh trong tiết dạy. Giáo viên phải có kiến thức vững vàng, hiểu biết rộng có như vậy mới chủ động giải quyết câu hỏi bất ngờ do học sinh đặt ra. Tuy nhiên trò chơi trên chỉ đạt hiệu quả khi: Giáo viên có sự chuẩn bị các đồ dùng dạy học. Học sinh tích cực tham gia. TÓM LẠI: Trên đây là những điều tôi rút ra được từ trong thực tiễn giảng dạy của mình trong năm học này và mong muốn sẽ làm tốt hơn trong các năm học tới. Tuy là những kinh nghiệm đơn giản nhưng đã có tác dụng rõ rệt trong mỗi giờ học cũng như trong suy nghĩ của các em học sinh. Trong khi trình bày sáng kiến sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, mong quý đồng nghiệp giúp đỡ, nhận xét bổ sung, góp ý kiến để tôi có những sáng kiến kinh nghiệm hoàn chỉnh hơn giúp nâng cao kết quả học tập cho học sinh trong môn toán nói riêng và những môn học khác nói chung. Rất mong được sự đóng góp ý kiến của quý đồng nghiệp và các cấp lãnh đạo. Để giúp đỡ tôi hoàn thành tốt hơn nữa trọng trách của người giáo viên trong “sự nghiệp trồng người”. Tân Hiệp, ngày 10 tháng 02 năm 2011 Người viết Lê Thị Lài Ý KIẾN NHẬN XÉT CỦA BAN GIÁM HIỆU Ý KIẾN NHẬN XÉT CỦA PHÒNG GIÁO DỤC
Tài liệu đính kèm: