PHÂN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
I. Lý do chọn đề tài:
Xã hội ngày càng phát triển mạnh. Thời đại của vi tính- tin học đang dần chiếm lĩnh mọi lĩnh vực. Để thích nghi được với sự phát triển ấy và xử lý các tình huống có liên quan trong cuộc sống đòi hỏi ở các em phải biết tính toán, phân tích. Muốn vậy các em phải học. Nhưng làm thế nào để các em ý thức được việc học là rất quan trọng so với sự phát triển của xã hội. Tôi xác định cần giúp các em học tốt tất cả các môn, nhất là môn toán cần phát huy tính tích cực của học sinh để học tốt môn toán.
II. THỰC TRẠNG CỦA LỚP:
1. THUẬN LỢI
Các em đã qua chương trình học lớp 1 dến lớp 4 của môn toán các em đã làm quen với các phép tính cơ bản và làm quen với phần phân số,
Cơ sở vật chất đảm bảo, đủ ánh sáng thoáng mát.
Các em được đào tạo theo chẩn mực của sinh từ những năm trước nên nề nếp lớp ổn định và các em tương đối ngoan trong các giờ học.
2.KHÓ KHĂN.
Tâm lý HS hiện nay, việc học môn toán, các em rất ngại hay nói đúng hơn là
sợ do còn yếu và ít học toán. Thời gian tập trung cho việc học toán còn ít.
Do vậy, học sinh không phát triển được năng lực tư duy, tìm tòi sáng tạo trong khi học môn toán, không hình thành được kĩ năng khái quát hóa, trừu tượng hóa của trí lực học sinh.
Vốn ngôn ngữ của các em còn yếu các em chưa thành thạo tiếng việt các em còn sử dụng tiếng mẹ đẻ nhiều trong giao tiếp trong trường, lớp.
Năm học trước (2010-2011), tôi áp dụng đề tài này cho lớp tôi và thấy có kết quả rất khả quan nên đến đầu năm học 2011-2012, được sự đồng ý của HĐKH trường, tôi đăng ký thực hiện đề tài này cho học sinh lớp tôi. Do đó, vào đầu năm học tôi thống kê các sai lầm của học sinh trong lớp tôi để tìm ra nguyên nhân và các biện pháp để khắc phục ngay cho môn toán (cho cả những năm học sau. Nếu được, tôi đăng ký thực hiện đề tài này cho cả khối lớp 5 ở những năm học sau).
C¸ch d¹y to¸n 5 ®Ó häc sinh tù t×m tßi kh¸m ph¸ kiÕn thøc míi PHÂN I: ĐẶT VẤN ĐỀ I. Lý do chọn đề tài: Xã hội ngày càng phát triển mạnh. Thời đại của vi tính- tin học đang dần chiếm lĩnh mọi lĩnh vực. Để thích nghi được với sự phát triển ấy và xử lý các tình huống có liên quan trong cuộc sống đòi hỏi ở các em phải biết tính toán, phân tích. Muốn vậy các em phải học. Nhưng làm thế nào để các em ý thức được việc học là rất quan trọng so với sự phát triển của xã hội. Tôi xác định cần giúp các em học tốt tất cả các môn, nhất là môn toán cần phát huy tính tích cực của học sinh để học tốt môn toán. II. THỰC TRẠNG CỦA LỚP: 1. THUẬN LỢI Các em đã qua chương trình học lớp 1 dến lớp 4 của môn toán các em đã làm quen với các phép tính cơ bản và làm quen với phần phân số, Cơ sở vật chất đảm bảo, đủ ánh sáng thoáng mát. Các em được đào tạo theo chẩn mực của sinh từ những năm trước nên nề nếp lớp ổn định và các em tương đối ngoan trong các giờ học. 2.KHÓ KHĂN. Tâm lý HS hiện nay, việc học môn toán, các em rất ngại hay nói đúng hơn là sợ do còn yếu và ít học toán. Thời gian tập trung cho việc học toán còn ít. Do vậy, học sinh không phát triển được năng lực tư duy, tìm tòi sáng tạo trong khi học môn toán, không hình thành được kĩ năng khái quát hóa, trừu tượng hóa của trí lực học sinh. Vốn ngôn ngữ của các em còn yếu các em chưa thành thạo tiếng việt các em còn sử dụng tiếng mẹ đẻ nhiều trong giao tiếp trong trường, lớp. Năm học trước (2010-2011), tôi áp dụng đề tài này cho lớp tôi và thấy có kết quả rất khả quan nên đến đầu năm học 2011-2012, được sự đồng ý của HĐKH trường, tôi đăng ký thực hiện đề tài này cho học sinh lớp tôi. Do đó, vào đầu năm học tôi thống kê các sai lầm của học sinh trong lớp tôi để tìm ra nguyên nhân và các biện pháp để khắc phục ngay cho môn toán (cho cả những năm học sau. Nếu được, tôi đăng ký thực hiện đề tài này cho cả khối lớp 5 ở những năm học sau). Đầu năm học, tôi ra đề kiểm tra tổng hợp các kiến thức về môn toán. Kết quả khảo sát của lớp tôi được thống kê đánh giá ở các mặt như sau: Môn toán Chưa đạt 22/28 hs chiếm 78 % Đạt: 6/28 hs chiếm 22 % Qua thống kê nêu trên, tôi nhận thấy học sinh của lớp tôi học chưa tốt về môn toán do những nguyên nhân sau: Chưa hiểu đầy các khái niệm trong môn toán và chưa có hứng thú trong môn học toán. Thực tế cho thấy cần có phương pháp dạy học hợp lý hơn, nó đòi hỏi giáo viên phải chủ động lựa chọn nội dung theo từng đối tượng học sinh, tức là phải dạy học xuất phát từ trình độ, năng lực, điều kiện cụ thể của từng học sinh. Điều đó có nghĩa là phải “cá thể hoá” dạy học, giáo viên là người tổ chức, hướng dẫn quá trình học tập. Điều đó không có nghĩa là làm giảm vai trò của người giáo viên mà chính là làm tăng vai trò chủ động, sáng tạo của họ. Điều đó cũng kéo theo sự thay đổi hoạt động học tập của học sinh. Mục đích của việc làm này là nhằm tạo điều kiện cho mọi học sinh có thể học tập tích cực, sáng tạo, chủ động theo khả năng của mình trong từng lĩnh vực. Cách dạy này gọi là: “Dạy học phát huy tính tích cực của học sinh” (phương pháp dạy học toán). Trong những yếu tố cấu thành giáo dục thì phương pháp xưa nay vốn là yếu tố năng động nhất. Bởi vì chính phương pháp chứ không phải nội dung hay yếu tố nào khác quyết định chất lượng đào tạo con người mới. Do đó, chúng ta có thể nói rằng, đổi mới phương pháp dạy học nói chung và phương pháp dạy học toán ở tiểu học nói riêng là việc làm cần thiết và cấp bách hiện nay. Vì lý do trên mà trong SKKN này tôi đưa ra một số biện pháp gây hứng thú trong giờ học toán cho học sinh tiểu học bằng cách tổ chức các hoạt động học tập để học sinh tự tìm tòi khám phá kiến thức mới góp phần nâng cao chất lượng trong các giờ học toán. PHẦN III: BIỆN PHÁP THỰC HIỆN 1- Tự tìm tòi, khám phá kiến thức trong học tập. Tính tích cực là một phẩm chất vốn có của con người trong đời sống xã hội; con người không chỉ tiếp thu những cái đã có mà luôn chủ động tìm tòi, khám phá, sáng tạo ra những cái mới phục vụ cho nhu cầu và cuộc sống của mình. Tính tích cực trong học tập là tính tích cực trong hoạt động nhận thức, đặc trưng ở khát vọng hiểu biết, cố gắng trí tuệ và nghị lực cao trong quá trình chiếm lĩnh nội dung học tập bằng hoạt động tìm tòi, khám phá. Hoạt động tìm tòi, khám phá là một chuỗi hành động và thao tác để hướng tới một mục tiêu xác định. Hoạt động tìm tòi, khám phá trong học tập có nhiều dạng khác nhau, từ mức độ thấp đến mức đọ cao tuỳ theo năng lực tư duy của từng học sinh và được tổ chức thực hiện theo cá nhân hoặc theo nhóm. Hoạt động tìm tòi, khám phá trong học tập có thể tóm tắt như sau: 1.1- Mục tiêu của hoạt động: - Hình thành kiến thức, kĩ năng mới. - Xây dựng thái độ, niềm tin cho học sinh. - Rèn luyện khả năng tư duy, năng lực xử lí tình huống, giải quyết vấn đề. 1.2- Các dạng hoạt động: - Trả lời câu hỏi và đặt câu hỏi.(hỏi - đáp) - Lập bảng, biểu đồ, sơ đồ, phân tích dữ kiện. - Thảo luận vấn đề nêu ra, đề xuất giả thuyết. - Thông báo kết quả, kiểm định kết quả. - Đưa ra giải pháp, kiến thức mới. 1.3- Hình thức tổ chức: - Hoạt động cá nhân. - Hoạt động theo nhóm (2 người hoặc 4 người). - Làm việc chung cả lớp. - Nhóm A thảo luận, nhóm B quan sát và ngược lại. - Trò chơi. Có thể tóm tắt quá trình tìm tòi khám phá kiến thức bằng sơ đồ sau: Kiến thức Dự đoán Kiểm nghiệm Điều chỉnh Kiến thức mới 2- Tác dụng của hoạt động tự tìm tòi khám phá kiến thức mới. - Giúp học sinh rèn luyện tính chủ động, sáng tạo trong học Toán. - Học sinh sẽ hiểu sâu, nhớ lâu kiến thức nếu như chính mình tìm ra kiến thức đó hoặc góp phần cùng các bạn tìm tòi, khám phá, xây dựng lên kiến thức đó. - Trong quá trình tìm tòi, khám phá học sinh tự đánh giá được kiến thức của mình. Cụ thể: + Khi gặp khó khăn chưa giải quyết được vấn đề, học sinh tự đo được thiếu sót của mình về mặt kiến thức, về mặt tư duy và tự rút kinh nghiệm. + Khi tranh luận với các bạn, học sinh cũng tự đánh giá được trình độ của mình so với các bạn để tự rèn luyện, điều chỉnh. - Trong quá trình học sinh tự tìm tòi, khám phá, Giáo viên biết được tình hình của học sinh về mức độ nắm kiến thức từ vốn hiểu biết, từ bài học cũ; trình độ tư duy, khả năng khai thác mối liên hệ giữa yếu tố đã biết với yếu tố phải tìm. - Học sinh tự tìm tòi, khám phá sẽ rèn luyện được tính kiên trì vượt khó khăn và một số phẩm chất tốt của người học Toán như: Tự tin, suy luận có cơ sở, coi trọng tính chính xác, tính hệ thống... 3- Quy trình dạy học để học sinh tự tìm tòi, khám phá kiến thức mới. 3.1- Đặc trưng của cách dạy: - Giáo viên đặt ra bài toán nhận thức chứa đựng mâu thuẫn hoặc mối quan hệ giữa cái đã biết với cái phải tìm theo cấu trúc một cách hợp lí, tự nhiên. - Học sinh tiếp nhận mâu thuẫn và được đặt vào tình huống có vấn đề. Khi đó học sinh được đặt vào trạng thái muốn tìm tòi, khám phá và chiếm lĩnh nội dung kiến thức. - Bằng cách giải bài toán nhận thức mà học sinh lĩnh hội được một cách tự giác và tích cực cả kiến thức và kĩ năng; từ đó có được niềm vui của sự nhận thức sáng tạo. 3.2- Quy trình cụ thể. Bước 1: Ôn tập tái hiện: Giúp học sinh ôn lại những kiến thức đã học có liên quan đến các kiến thức mới mà học sinh cần nắm được. Bước 2: Phát hiện, nêu vấn đề: Cho học sinh phát hiện ra những vấn đề chưa rõ và xem đó là vấn đề cần được giải quyết trong tiết học đó. Bước 3: Tổng hợp, so sánh và đề xuất ý tưởng: Từ những vướng mắc cần giải quyết ở trên, cho học sinh độc lập suy nghĩ hoặc thảo luận nhóm để đưa ra các ý tưởng giải quyết vấn đề. Giáo viên nhận xét, bổ sung thêm để hình thành ý tưởng chung. Bước 4: Dự đoán giả thuyết: Cho học sinh suy nghĩ tiếp và dự đoán hay đề xuất giả thuyết về nội dung kiến thức, kĩ năng mới. Bước 5: Kiểm tra giả thuyết: Cho học sinh kiểm tra giả thuyết đã đề xuất qua một số ví dụ cụ thể để khẳng định đó là kiến thức, kĩ năng mới. Bước 6: Rút ra kiến thức mới: Sau khi kiểm tra và khẳng định giả thuyết đó là đúng, Giáo viên cho học sinh phân tích tìm ra kết luận chung về kiến thức, kĩ năng mới. 4- Một số lưu ý khi thực hiện cách dạy để học sinh tự tìm tòi, khám phá kiến thức mới. - Phải chú ý ngay từ việc soạn giáo án. Phải tập trung vào việc thiết kế các hoạt động của học sinh trước, trên cơ sở đó mới xác định các hoạt động chỉ đạo, tổ chức của Giáo viên. - Số lượng hoạt động và mức độ tư duy trong mỗi tiết học phải phù hợp với trình độ học sinh để có đủ thời gian tổ chức hoạt động tìm tòi, khám phá. - Nghiên cứu kĩ nội dung bài học, tìm kiếm các tinh huống có vấn đề, tạo cơ hội cho học sinh tìm tòi, khám phá. 5- Một số ví dụ: 5.1- Ví dụ 1: Tuần 1 - Bài: Phân số thập phân (trang 8 SGK) I/- Mục tiêu. - Giúp học sinh nhận biết được các phân số thập phân. - Giúp các em biết được một số phân số có thể viết thành phân số thập phận và biết cách chuyển những phân số đó thành phân số thập phân. II/- Các hoạt động dạy học chủ yếu. 1- HOẠT ĐỘNG SƯ PHẠM : (5 - 6 phút) - Kiểm tra viết tất cả học sinh trong lớp ( có thể dùng phiếu kiểm tra). (1 học sinh lên bảng làm , yêu cầu học sinh này trình bày ở bảng bên trái.) Đề bài Đáp án (Học sinh làm) a) So sánh với = = = = Vì > nên > b) với = = = = Vì > nên > c) với 1 nên > 2. BÀI MỚI GIỚ THIỆU BÀI Dựa vào các bài làm trên bảng, giáo viên dùng thước để chỉ vào những phân số nói đến: Để so sánh với ta so sánh hai phân số tương đương là với , để so sánh với ta so sánh 2 phân số tương ứng là với , những phân số này...... và phân số (giáo viên dùng phấn màu đóng khung 5 phân số đó) gọi là phân số thập phân. Từ đó giáo viên giới thiệu tên bài mới vd: Phân số thập phân 2.1- Giới thiệu về phân số thập phân: ( 15 - 18 phút) a) Nhận biết phân số thập phân. - Dựa vào 5 phân số trên, mỗi học sinh trong lớp viết vào giấy nháp 2 phân số thập phân và hai phân số không phải là phân số thập phân (1 học sinh A lên bảng viết). - Tất cả lớp, dùng bút đánh dấu đặc điểm của phân số thập phân (học sinh A cũng làm tương tự ở bảng). - Ba, bốn học sinh nêu đặc điểm mà minh đánh d ... chữ nhật (hình 4). Hoặc đếm số ô vuông nằm trọn trong tam giác (hình 1). Hình 2 Hình 3 Hình 4 - Các nhóm trình bày cách giải quyết vấn đề của nhóm mình và trao đổi ý kiến về các cách đó để tự rút ra được: Có 2 cách là thuận lợi hơn cả, đó là: Cách 1: Sử dụng 2 tam giác bằng nhau ghép thành 1 hình bình hành. Cách 2: Sử dụng 2 tam giác bằng nhau cắt, ghép thành hình chữ nhật. (các cách khác nhau không thuận lợi bằng). GV có thể hướng dẫn: Theo cách 1: Dùng 2 tam giác bằng nhau ghép lại để tạo thành hình bình hành ABCD (như hình vẽ) A A D B H C B H C Cho học sinh so sánh, đối chiếu các yếu tố hình học trong hình để thấy: Hình bình hành ABCD gổm 2 hình tam giác bằng nhau ghép lại nên có diện tích gấp 2 lần diện tích hình tam giác ABC. Hình bình hành ABCD và hình tam gíc ABC có chung đáy BC và đường cao AH. Tính diện tích hình bình hành ABCD bằng cách: lấy đáy x chiều cao, tức là BC x AH. Rút ra cách tính diện tích hình tam giác ABC là: Từ đó nêu quy tắc và công thức tính như SGK Theo cách 2 (là cách trong SGK): Sử dụng mô hình chuẩn bị trước: Lấy ra 2 tam giác bằng nhau (trong đó có một tam giác đã chia làm hai mảnh) rồi ghép thành hình chữ nhật. Hoặc sử dụng giấy (đã chuẩn bị sẵn ở trên ), cắt đồng thời 2 tam giác bằng nhau (gấp đôi mảnh giấy, cắt theo hình tam giác đã vẽ), rồi cắt một tam giác (theo đường cao) được 2 tam giác nhỏ ghép vào tam giác kia để được hình chữ nhật. Bước 4: Tổ chức cho HS phân tích vấn đề và khái quát hoá vấn đề (hoạt động cá nhân kết hợp hoạt dộng chung cả lớp). + GV mô tả hoạt động cắt, ghép trên bằng hình vẽ: Đường cắt 1 2 1 2 + GV hướng dẫn HS so sánh, đồi chiếu các yếu tố hình học trong hình vừa ghép để nhận thấy: Chiều rộng của hình chữ nhật bằng chiều cao của hình tam giác, chiều dài của hình chữ nhật bằng cạnh đáy của hình tam giác. Từ đó, GV có thể gợi ý: * Viết ngắn gọn cách tính diện tích của hình chữ nhật? (Chiều cao x đáy). * So sánh diện tích của hình tam giác với diện tích của hình chữ nhật và rút ra cách tính diện tích của hình tam giác (chiều cao x đáy: 2); + GV nhận xét kết quả làm việc của HS, hướng dẫn HS khái quát hoá: S = a x b : 2, trong đó a là độ dài đáy, h là chiều cao tương ứng với đáy a (a và h có cùng đơn vị đo) S là diện tích (kèm hình vẽ). h a * Lưu ý HS: Cần ghi nhớ công thức, cách thành lập công thức để vận dụng trong những trường hợp khác sẽ gặp sau này. + Học sinh áp dụng công thức (vừa thành lập) để tính diện tích tam giác đã nêu trong bước 1 (3 x 4 : 2 = 6 (cm2)) Hoạt động 2: : Thực hành Bài 1: Tính diện tích hình tam giác mà độ dài đáy và chiều cao có cùng đơn vị đo. + HS tự làm và nêu kết quả. HS khác nhận xét (cách tính và kết quả). 8 x 6 : 2 = 24 cm2; 2,3 x 1,2 : 2 = 1, 38 dm2. + GV tổ chức cho HS khá, giỏi giúp đỡ bạn. Nhận xét về đơn vị đo (đáy và chiều cao đều có đơn vị đo là cm (dm)), diện tích có đơn vị đo là cm2 (dm2). Bài 2: Tính diện tích hình tam giác mà độ dài đáy và chiều cao không có cùng đơn vị đo (1 bài) và 1 bài tính diện tích hình tam giác mà độ dài đáy và chiều cao có cùng đơn vị đo, số đo là số thập phân nhưng số chữ số ở phần nguyên khác nhau. + HS tự làm và nêu kết quả? HS khác nhận xét. a) 5m = 50 dm; hoặc 24 dm = 2,4 m. 50 x 24 : 2 = 600 (dm2); hoặc 5 x 2,4 : 2 = 6 (m2). b) 42,5 x 5,2 : 2 = 110,5 (m2) + HS phát hiện thêm vấn đề: số đo độ dài đáy và chiều cao không cùng đơn vị đo (câu a).+ GV tổ chức cho HS khá, giỏi giúp đỡ bạn. GV nhận xét, kết luận và nêu vấn đề: trước khi áp dụng công thức tính diện tích hình tam giác cần lưu ý điều gì? (đổi số đo độ dài đáy và chiều cao về cùng số đo) PHẦN III: KẾT LUẬN I/- KẾT LUẬN CHUNG: 1- Kết quả đạt được: - Về nhận thức: đa số giáo viên trong nhà trường đều hiểu và xác định được vai trò và sự cần thiết của việc đổi mới phương pháp dạy học trong quá trình lên lớp. giáo viên, tổ chuyên môn đều xây dựng các giờ dạy thử, các giờ dạy mẫu nhằm định hình cho mình một phương pháp dạy học phù hợp trong từng bài dạy, tiết dạy. nếu trước kia giáo viên đổi mới phương pháp dạy học chủ yếu dựa vào kinh nghiệm của bản thân thì nay dựa vào cơ sở khoa học và định hướng của đề tài mà giáo viên có một cách nhìn tổng thể để đổi mới phương pháp dạy học, nhờ đó mà thực hiện dễ dàng và hiệu quả hơn. - Cách dạy này có một số ưu điểm sau: + Học sinh nắm chắc được kiến thức trọng tâm của bài. + Phát huy được tính chủ động, tích cực trong học tập. + Giáo viên không phải nói nhiều mà thay vào đó học sinh sẽ được thực hành nhiều. + Các tồn tại của những năm học trước đã được khắc phục ở năm học này. + Tiết học đảm bảo đúng thời gian quy định (không kết thúc sớm), tránh được sự đơn điệu trong bài học, thu hút sự chú ý của học sinh. 2- Điều kiện để việc đổi mới cách dạy đạt hiệu quả: - Điều kiện chủ quan: giáo viên phải có hiểu biết và kĩ năng về nội dung dạy học, có hiểu biết về đặc điểm tâm lí học sinh, nắm được và có thái độ sẵn sàng tham gia và thực hiện việc đổi mới phương pháp dạy học. - Điều kiện khách quan: các nhà trường phải có đủ đồ dùng, phương tiện dạy học, có tài liệu về phương pháp dạy học tích cực .... đặc biệt phải có điều kiện cơ sở vật chất tối thiểu mới đáp ứng được yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học. Trong các điều kiện trên, điều kiện chủ quan, đặc biệt là vốn kiến thức và hiểu biết của giáo viên về phương pháp dạy học là quan trọng nhất. tuy nhiên trong đội ngũ giáo viên hiện nay vẫn còn một bộ phận giáo viên có nhận thức mơ hồ về phương pháp dạy học, do đó có thái độ thờ ơ với việc đổi mới phương pháp, thậm chí vẫn còn giáo viên thiếu tích cực trong việc đổi mới phương pháp. đây là một trong những nguyên nhân làm cho tiến trình đổi mới phương pháp dạy học chậm và kém hiệu quả. II/- NHỮNG KHÓ KHĂN VÀ HƯỚNG KHẮC PHỤC 1- Khó khăn: - Về phía học sinh: + Khó khăn về khả năng và trình độ tư duy. + Vốn kiến thức cơ bản ở các lớp dưới còn yếu hoặc thiếu. + Thói quen học vẹt, ghi nhớ máy móc, tiếp thu thụ động, chỉ tiếp nhận được cái đã có sẵn. - Về phía Giáo viên: + Không có đủ thời gian để thực hiện. + Chưa nắm được phương pháp tổ chức, hướng dẫn học sinh. + Chưa thành nhu cầu cấp thiết. - Về điều kiện để thực hiện: + Chưa có đủ sách, tài liệu học tập, tài liệu tham khảo. + Thiếu trang thiết bị dạy học. + Cách quản lí, đánh giá của các cấp quản lí giáo dục về dạy và học Toán. 2- Hướng khắc phục: - Quan tâm hơn nữa đến việc làm chuyển biến nhận thức của học sinh. - Gợi mở, nêu vấn đề một cách tự nhiên trong quá trình dạy học để thu hút và hướng học sinh tới đích phải tìm. - Huy động vốn hiểu biết của học sinh, củng cố kiến thức cũ giúp học sinh tự giải quyết vấn đề. - Tổ chức, hướng dẫn học sinh biết cách hoạt động thảo luận nhóm. - Quan sát, theo dõi học sinh tự tìm tòi khám phá để có định hướng, gợi mở cho học sinh khi cần thiết. - Động viên khuyến khích học sinh kiên trì, vượt khó khăn tích cực tham gia hoạt động. - Sử dụng hợp lí thiết bị dạy học. III/- Ý KIẾN ĐỀ XUẤT: 1- Đối với giáo viên: - Cần có nhận thức đúng: giáo viên là chủ thể trực tiếp đổi mới phương pháp dạy học, không ai làm thay được và điều đó diễn ra thường xuyên , liên tục trong bài học, môn học , lớp học, trường học và quá trình dạy học. - Luôn bổ sung cho mình những kinh nghiệm còn thiếu nhưng cần phải có để thực hiện tốt việc đổi mới phương pháp dạy học. Có công tác chuẩn bị tốt trước khi lên lớp trong đó chú trọng việc thiết kế bài dạy theo hướng tích cực hoá các hoạt động của học sinh. - Cần phải biết tạo ra không khí học tập thật thoải mái, tự nhiên, tránh gây căng thẳng. Biết trân trọng những phát hiện của các em dù là nhỏ nhất để hình thành ở các em niềm tin vào bản thân mình. Giáo viên cần quan tâm đến mọi đối tượng học sinh, phát huy khả năng và sở trường của các em. Biết tạo ra một môi trường học tập tích cực để các em có cơ hội bộc lộ khả năng của cá nhân, biết trình bày quan điểm, ý kiến của mình trước tập thể, biết tự đánh giá kết quả học tập, biết học hỏi lẫn nhau trong quá trình học tập. 2- Đối với nhà trường: - Thực hiện tốt việc đổi mới phương pháp dạy học. Đổi mới cách dạy của Giáo viên, cách học của học sinh và đổi mới cách đánh giá học sinh. Đưa học sinh từ vai trò thụ động sang vai trò chủ động của quá trình tiếp thu kiến thức. - Nâng cao vai trò và trách nhiệm của tổ chuyên môn trong việc tổ chức và triển khai các hoạt động chuyên môn trong đó có nhận xét, đánh giá việc đổi mới phương pháp dạy học của giáo viên trong tổ. nếu công việc này được làm thường xuyên, có kế hoạch thì chắc chắn sẽ có tác dụng và hiệu quả cao. - Ngay từ đầu năm phải xây dựng được kế hoạch hoạt động riêng cho nội dung đổi mới phương pháp dạy học, kế hoạch phải rõ ràng, chi tiết và dễ thực hiện. định kì, kết hợp với tổ chuyên môn để rút kinh nghiệm và định hướng cho các công việc tiếp theo. - Có đầu tư hợp lí cho việc mua sắm phương tiện dạy học và các tài liệu chuyên môn phục vụ cho dạy và học. thường xuyên tổ chức các chuyên đề, hội thảo tập trung vào việc đổi mới phương pháp dạy học, lấy đó là một trong những tiêu chí nhằm nâng cao chất lượng dạy và học. 3- Đối với các cấp quản lí: - Nên tổ chức nhiều chuyên đề "đổi mới phương pháp dạy học" hơn nữa, trong mỗi chuyên đề nên tập trung vào việc làm cụ thể, tránh mang nặng tính lí thuyết khó vận dụng. - Có kế hoạch cung ứng sách giáo khoa , các tài liệu tham khảo và đồ dùng dạy học sớm hơn, ngay từ khi kết thúc năm học cũ, để giáo viên có thời gian nghiên cứu, tìm hiểu trước khi tham gia các lớp bồi dưỡng thường xuyên trong hè. Trên đây là toàn bộ nội dung SKKN “ Cách dạy Toán 5 để học sinh tự tìm tòi khám phá kiến thức mới”; với mục đích: “đưa học sinh vào vị trí chủ thể của hoạt động nhận thức. học sinh được hoạt động nhiều hơn, suy nghĩ nhiều hơn” như mục đích của chương trình tiểu học năm 2000 đã đề ra. Vì thời gian có hạn nên SKKN này sẽ không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót, kính mong các thầy cô giáo cùng bạn đọc góp ý, bổ sung để SKKN được hoàn thiện hơn. Người viết Nguyễn Thị Thanh Lài Đánh giá nhận xét của nhà trường Đánh giá nhận xét của TKT
Tài liệu đính kèm: