Sáng kiến kinh nghiệm Một số kinh nghiệm giúp học sinh dân tộc thiểu số học tốt phân môn Tập đọc lớp 2

Sáng kiến kinh nghiệm Một số kinh nghiệm giúp học sinh dân tộc thiểu số học tốt phân môn Tập đọc lớp 2

A - ĐẶT VẤN ĐỀ:

Mục đích của quá trình dạy học ở bậc tiểu học là cung cấp trang bị cho học sinh những kiến thức cơ bản về tự nhiên và xã hội. Mục đích đó được hình thành thông qua việc đổi mới chương trình nội dung và phương pháp dạy học nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho thế hệ trẻ, nhằm phát huy tư duy sáng tạo, tính độc lập suy nghĩ của các em để đáp ứng nhu cầu phát triển nguồn nhân lực và nhân tài cho đất nước để từng bước tiếp cận trình độ giáo dục ở các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới.

 Giáo dục tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản để tiếp tục học trung học cơ sở.

 Nền tảng nhân cách, kĩ năng sống, kĩ năng học tập cơ bản (nghe, nói, đọc, viết và tính toán) của học sinh ở tiểu học và được sử dụng trong suốt cuộc đời của mỗi con người. Học sinh tiểu học được dạy từ những thói quen nhỏ nhất như cách cầm bút, tư thế ngồi, cách thưa gửi, đi đứng, ăn mặc cho đến các kĩ năng tự phục vụ, kĩ năng giao tiếp, các kĩ năng học tập và khả năng tự học, sáng tạo. Như vậy, giáo dục tiểu học là nền tảng của sự hình thành nhân cách và sự phát triển toàn diện của con người.

 Đặc biệt là môn Tiếng việt ở Tiểu học có một ý nghĩa vô cùng quan trọng trong hệ thống giáo dục quốc dân. Vì nó có nhiệm vụ hình thành năng lực hoạt động ngôn ngữ của học sinh nhất là vùng khó khăn, dân tộc thiểu số. Với yêu cầu ngày càng cao của xã hội về chất lượng nhân lực để phát triển đất nước đòi hỏi ở học sinh khả năng tiếp nhận thông tin, một lượng kiến thức, kĩ năng rất lớn và đa dạng: kiến thức toán học, tự nhiên và xã hội, kĩ năng giao tiếp, kĩ năng sống,. Vì thế với một lượng kiến thức cơ bản nhất của chương trình, đã được phân bổ cho nhiều phân môn khác nhau, người giáo viên là người tổ chức hướng dẫn giúp học sinh tự học, tự hoạt động để chiếm lĩnh tri thức đó. Tuỳ theo đặc trưng của từng phân môn mà giáo viên chọn các phương pháp, hình thức dạy học khác nhau.

 

doc 16 trang Người đăng buihue123 Lượt xem 737Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số kinh nghiệm giúp học sinh dân tộc thiểu số học tốt phân môn Tập đọc lớp 2", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A - ĐẶT VẤN ĐỀ: 
Mục đích của quá trình dạy học ở bậc tiểu học là cung cấp trang bị cho học sinh những kiến thức cơ bản về tự nhiên và xã hội. Mục đích đó được hình thành thông qua việc đổi mới chương trình nội dung và phương pháp dạy học nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho thế hệ trẻ, nhằm phát huy tư duy sáng tạo, tính độc lập suy nghĩ của các em để đáp ứng nhu cầu phát triển nguồn nhân lực và nhân tài cho đất nước để từng bước tiếp cận trình độ giáo dục ở các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới. 
 Giáo dục tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản để tiếp tục học trung học cơ sở. 
 Nền tảng nhân cách, kĩ năng sống, kĩ năng học tập cơ bản (nghe, nói, đọc, viết và tính toán) của học sinh ở tiểu học và được sử dụng trong suốt cuộc đời của mỗi con người. Học sinh tiểu học được dạy từ những thói quen nhỏ nhất như cách cầm bút, tư thế ngồi, cách thưa gửi, đi đứng, ăn mặc cho đến các kĩ năng tự phục vụ, kĩ năng giao tiếp, các kĩ năng học tập và khả năng tự học, sáng tạo. Như vậy, giáo dục tiểu học là nền tảng của sự hình thành nhân cách và sự phát triển toàn diện của con người. 
 Đặc biệt là môn Tiếng việt ở Tiểu học có một ý nghĩa vô cùng quan trọng trong hệ thống giáo dục quốc dân. Vì nó có nhiệm vụ hình thành năng lực hoạt động ngôn ngữ của học sinh nhất là vùng khó khăn, dân tộc thiểu số. Với yêu cầu ngày càng cao của xã hội về chất lượng nhân lực để phát triển đất nước đòi hỏi ở học sinh khả năng tiếp nhận thông tin, một lượng kiến thức, kĩ năng rất lớn và đa dạng: kiến thức toán học, tự nhiên và xã hội, kĩ năng giao tiếp, kĩ năng sống,... Vì thế với một lượng kiến thức cơ bản nhất của chương trình, đã được phân bổ cho nhiều phân môn khác nhau, người giáo viên là người tổ chức hướng dẫn giúp học sinh tự học, tự hoạt động để chiếm lĩnh tri thức đó. Tuỳ theo đặc trưng của từng phân môn mà giáo viên chọn các phương pháp, hình thức dạy học khác nhau.
 Tập đọc là phân môn thực hành. Nhiệm vụ quan trọng nhât của nó là hình thành năng lực đọc cho học sinh. Năng lực đọc của học sinh được tạo nên từ bốn kĩ năng cũng là bốn yêu cầu về chất lượng của "đọc": đọc đúng, đọc nhanh (đọc lưu loát, trôi chảy), đọc có ý thức (thông hiểu được nội dung những điều mình đọc hay còn gọi là đọc hiểu) và đọc diễn cảm. Bốn kĩ năng này được hình thành trong hai hình thức đọc: đọc thành tiếng và đọc thầm. Chgúng được rèn luyện đồng thời và hỗ trợ lẫn nhau. Sự hoàn thiện một trong những kĩ năng này sữ có tác động tích cực đến những kĩ năng khác. Ví dụ: Đọc đúng là tiền đề của đọc nhanh cũng như cho phép thông hiểu nội dung văn bản. Ngược lại, nếu không hiểu mình đang đọc thì không thể đọc nhanh và đọc diễn cảm được. Nhiều khi khó mà nói được rạch ròi kĩ năng nào làm cơ sở cho kĩ năng nào, nhờ đọc đúng mà hiểu đúng hay chính hiểu đúng mà đọc được đúng. Vì vậy, trong dạy học phân môn tập đọc không thể xem nhẹ yếu tố nào. 
 Trong khi đó ở trường Tiểu học việc dạy phân môn Tập đọc cho học sinh ở một số nơi nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số hiện nay chưa đáp ứng được theo chuẩn kiến thức, kĩ năng của bậc học. Kết quả đọc của các em chưa đáp ứng được yêu cầu về kỹ năng: đọc đúng, đọc nhanh (đọc lưu loát, trôi chảy), đọc có ý thức (thông hiểu được nội dung những điều mình đọc hay còn gọi là đọc hiểu) và đọc diễn cảm. Các em chưa nắm được công cụ hữu hiệu để lĩnh hội tri thức, tư tưởng, tình cảm của người khác chứa đựng trong văn bản được đọc.
 Đặc biệt là dạy học ở vùng khó khăn, vùng dân tộc thiểu số việc dạy học cho học sinh biết đọc đúng, đọc nhanh, đọc hiểu văn bản và đọc diễn cảm cũng là một việc khó khăn đối với với học sinh học ở mức độ trung bình trở lên. Mà điều tôi băn khoăn và trăn trở chính là việc dạy cho học sinh biết đọc đúng, đọc nhanh (không ảnh hưởng phương ngữ) và đọc hiểu, giao tiếp tốt bằng tiếng Việt là một điều rất khó khăn (đối với học sinh dân tộc Khơ – mú ở địa bàn bản Xốp Kha, xã Yên Hoà, huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An).
 Là giáo viên trực tiếp giảng dạy tại lớp 2C trường Tiểu học Yên Hoà I (bản Xốp Kha, học sinh 100% là dân tộc Khơ-mú), có nhiều học sinh đọc yếu về: chưa nhận diện được mặt chữ, đọc chậm, đọc dịch, ảnh hưởng phương ngữ rất lớn, phát âm sai các vần khó như: ia/uyên/iên, ăt/ ăc/ ăp, các dấu thanh sắc/ngã, nặng/hỏi, ... Cho nên việc các em tiếp thu, lĩnh hội các kiên thức, kĩ năng là một điều hết sức khó khăn, nan giải. Vì thế bản thân tôi cũng đang trăn trở với một địa bàn khó khăn như vậy, với lượng thời gian quy định cho tiết dạy là 40 - 45phút/tiết, nhưng để trong bất kỳ tiết học nào cũng đảm bảo được rèn cách đọc cho học sinh như: chữa lỗi phát âm, giúp các em đọc đúng, đọc lưu loát và hiểu được văn bản để giờ dạy đạt được hiệu quả cao, nâng cao chất lượng đọc cho học sinh vùng dân tộc thiểu số, đó là một vấn đề nan giải.
 Với mong muốn nâng cao chất lượng dạy học cho học sinh lớp 2 vùng dân tộc thiểu số, bản thân tôi biết đã dùng biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học phân môn tập đọc cho học sinh trong năm học 2011-2012 và đúc kết: "Một số kinh nghiệm giúp học sinh dân tộc thiểu số học tốt phân môn Tập đọc lớp 2 ".
B - NỘI DUNG
I - NGUYÊN NHÂN HỌC SINH CHƯA HỌC TỐT PHÂN MÔN TẬP ĐỌC LỚP 2:
 Qua trực tiếp giảng dạy trên lớp, bản thân tôi nhận thấy một số nguyên nhân, thực trạng và khó khăn ở địa bàn xã Yên Hoà nói chung và lớp 2C bản Xốp Kha nói riêng như sau:
 1. Cái khó nhất ở đây là bất đồng ngôn ngữ (Học sinh giao tiếp bằng tiềng phổ thông rất hạn chế, một số em không giao tiếp được bằng tiếng Việt, tiếng dân tộc Thái rất hạn chế) nên rất khó trong việc giao tiếp, truyền đạt kiến thức, kĩ năng cho học sinh. 
 2. Các em sống trên địa bàn đi lại khó khăn về giao thông, sống ở một thôn bản biệt lập, sự giao lưu với môi trường xung quanh hầu như không có (nhất là giao tiếp bằng tiếng phổ thông), hầu hết người dân nơi đây giao tiếp với nhau chủ yếu bằng tiếng mẹ đẻ (tiếng dân tộc Khơ - mú); vả lại học sinh ở bản Xốp Kha (Trường tiểu học Yên Hoà 1) không hiểu cả tiếng dân tộc Thái nên rất khó cho giáo viên trong việc truyền đạt thông tin bài dạy.
 3. Đa số học sinh thuộc hoàn cảnh đặc biệt khó khăn về kinh tế. Phụ huynh chưa thực sự quan tâm đến việc học tập của các em, phụ huynh học sinh phó mặc con em cho giáo viên. 
 4. 90% các em đọc sai dấu thanh, nặng về phương ngữ, đọc sai từ còn nhiều. Chẳng hạn: Các tiếng không có dấu thì các em đọc thêm dấu, có dấu thì đọc không có dấu. Ví dụ: voi nhà thì đọc là vòi nha, con rắn đọc là con răn,...
 5. Một số học sinh phát âm chưa tốt nhất là tiếng phổ thông, nên khi nói, đọc thường đọc quen với phương ngữ.
 6. Khi dạy giáo viên sửa sai cho các đối tượng học sinh còn hạn chế, nhất là học sinh yếu. Giáo viên dường như "bỏ quên" đối tượng học sinh yếu, vì các em học sinh đọc chậm, đọc sai từ nhiều, trả lời ngắc ngứ làm ảnh hưởng đến thời lượng của tiết học.
 7. Một số giáo viên chưa nhận thức đúng tầm quan trọng của việc đọc mẫu, đọc còn sai nhiều, khi hướng dẫn kĩ thuật đọc chưa hướng dẫn tỉ mỉ, tận tình cho học sinh, nhất là học sinh yếu. 
 8. Giáo viên không hiểu và không giao tiếp được bằng tiếng dân tộc Khơ-mú nên rất khó khăn trong khi dạy học, truyền đạt nội dung hay trao đổi một vấn đề nào đó.
	Cụ thể:	
1. Về học sinh:
- Thực tế cho thấy chất lượng đọc của các em chưa đáp ứng được yêu cầu của việc hình thành kỹ năng đọc. Những học sinh do mang âm hưởng của tiếng địa phương nên phát âm còn sai lỗi chính tả. Các em còn đọc sai chính âm, đặc biệt sai nhiều đối với phụ âm đầu như : s/x; ch/tr; d/r và các vần ia/ay, ơm/âm, iu/ ưu; iêu/ ươu. 
- Một số em còn đánh vần, đọc nhỏ, đọc lí nhí, đọc chưa đúng các tiếng có vần khó: uyên, oan, uông, ăt/ăc/ăp,... còn bỏ sót tiếng hoặc thêm tiếng; bỏ dấu thanh hoặc thêm dấu thanh một cách tuỳ tiện. 
- Do còn chưa mạnh dạn nên đọc phân biệt các lời của nhân vật trong bài chưa đạt yêu cầu, còn đọc với giọng đều đều.
- Do các em vừa học ở lớp 1 lên, do đó kỹ năng đọc của các em còn chậm, chưa đạt yêu cầu, một số em chưa nhận diện được mặt chữ cái vì hổng kiến thức phần học vần ở lớp 1.
- Ở nhà các em không học bài, không ôn lại nội dung bài học ở lớp nên cũng ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng học tập nói chung và chất lượng đọc nói riêng.
	2. Về giáo viên:
	- Một số giáo viên chưa chú trọng phối hợp rèn các kỹ năng đọc dẫn đến chưa đạt được mục tiêu dạy học như mong muốn.
	- Việc phân bố thời gian trong tiết tập đọc còn chưa hợp lý, chưa nắm được trọng tâm của tiết tập đọc.
	- Sử dụng các biện pháp dạy học chưa thật sự linh hoạt trong việc phối kết hợp các phương pháp dạy học và thay đổi hình thức dạy học nên dẫn đến giờ học trầm và không có hiệu quả cao.
	- Nhiều giáo viên không đầu tư nhiều cho việc xây dựng kế hoạch bài dạy, nên các định hướng trong giờ học còn chung, mang nặng tính hình thức.
	- Điều kiện giảng dạy của giáo viên, của trường còn gặp nhiều khó khăn như cơ sở vật chất (điện thắp sáng, bàn ghế, bảng,...) chưa đạt yêu cầu, đồ dùng phục vụ môn học chưa đầy đủ.
	Trên đây là một số nguyên nhân và thực trạng trong giờ học tập đọc mà tôi thường gặp phải ở trường khi trực tiếp giảng dạy. Trong năm học 2011-2012, tôi được nhà trường phân dạy lớp 2C, tôi đã có kế hoạch và tiến hành khảo sát chất lượng học sinh đầu năm học.
 *Kết quả khảo sát đọc đầu năm học 2011-2012 đạt kết quả như sau: 
Bảng đối chứng (đọc)
Tổng số HS
Kết quả khảo sát
Giỏi
Khá
TB
Yếu 
Kém
SL
TL%
SL
TL%
SL
TL%
SL
TL%
SL
TL%
 11
0
0
2
18,2
4
36,3
2
18,2
3
27,3
 II - MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT PHÂN MÔN TẬP ĐỌC LỚP 2 :
	Mục đích yêu cầu của môn học gồm có luyện đọc thành tiếng và luyện đọc hiểu.
1. Luyện đọc thành tiếng:
	Bao gồm: Luyện đọc to, luyện đọc đúng, luyện đọc nhanh. Đối với học sinh lớp 2 cần chú ý khâu luyện đọc đúng và luyện đọc nhanh. Vì luyện đọc nhanh thì chắc chắn học sinh phần lớn có đọc được đúng, không ê - a ngắc ngứ thì mới luyện đọc được nhanh (tốc độ đọc vừa phải, đạt yêu cầu 50 tiếng/phút ... 
d) Thi đọc
Giáo viên tổ chức cho các nhóm thi đọc nối tiếp, phân vai, tổ chức cho cá nhân thi đọc đoạn 2
Nhận xét tuyên dương các em đọc tốt
3. Tìm hiểu bài
- Gọi 1 em đọc to đoạn 1 - cả lớp đọc thầm.
- Tác giả ví sông Hương với hình ảnh gì?
- Giáo viên treo tranh vẽ cảnh sông Hương.
- Yêu cầu học sinh quan sát tranh và đọc thầm đoạn 1. Để trả lời câu hỏi.
- Tìm những từ ngữ chỉ các màu xanh khác nhau của Sông Hương?
- Tìm từ chỉ mức độ khác nhau của màu xanh?
- Ghi bảng: Sắc độ
Giáo viên: Cảnh Sông Hương có rất nhiều màu xanh, sắc độ dậm nhạt khác nhau đã tạo cho Sông Hương một nét đẹp quyến ruc, nên thơ, thanh bình.
- Về màu hè Sông Hương có sự thay đổi như thế nào?
Ghi bảng từ: Dải lụa đào.
-Do dâu mà hè đến Sông Hương lại chuyển màu như một giải lụa màu hồng?
Giáo viên: Hai bên bờ này được trồng nhiều Phượng vĩ, mùa hè đến hoa Phượng nở đỏ rực in bóng xuống mặt nước tạo cho Sông Hương có vẻ đẹp tác giả ví như giải lụa màu hồng.
- Vào những đêm trăng sáng Sông Hương có vẻ đẹp ra sao?
GB: Lung linh dát vàng
- Vì sao tác giả lại ví Sông Hương như một đường trắng lung linh dát vàng?
Chuyển: Phong cảnh Sông Hương đã góp phần tô thêm cảnh dệp cho Thành phố Huế như thế nào? Mời các em theo dõi phần còn lại.
- Yêu cầu học sinh đọc thầm phần còn lại.
- Sông Hương đối với Huế như thế nào?
- Yêu cầu đọc chú giải nghĩa của từ đặc ân.
Tìm từ gần nghĩa với từ đặc ân?
- Vì sao tác giả nói Sông Hương là một đặc ân củ thiên nhiên dành cho Thành phố Huế?
4. Luyện đọc lại
-Qua tìm hiểu nội dung các em thấy Sông Hương rất đẹp trong khi đọc các em cần lưu ý:
Đoạn 1: Khi đọc cần nhấn giọng ở những từ gợi tả màu xanh: xanh thẳm, xanh biếc, xanh non.
Đoạn 2: Nhấn giọng ở những từ ngữ gợi tả sự thay đổi sắc màu của dòng sông như dải lụa đào, lung linh dát vàng.
Đoạn 3: Nhấn giọng ở các từ: đặc ân, trong lành, tan biến, êm đềm, ca ngợi Sông Hương.
- Gọi học sinh đọc bài.
5. Củng cố dặn dò:
- Gọi 1 em đọc toàn bài
? Học qua bài này em cảm nhận được gì về Sông Hương?
- Nhận xét tiết học.
- Dặn về nhà luyện đọc bài chuẩn bị bài sau.
Hai học sinh lên bảng nối tiếp nhau đọc bài (mỗi em đọc 2 đoạn)
- Tôm càng rất thông minh, nhanh nhẹn. Nó dũng cảm cứu bạn và luôn quan tâm lo lắng cho bạn.
Theo dõi và đọc thầm theo
Học sinh nối tiếp nhau đọc bài
Học sinh luyện đọc lại các từ khó phát âm sai.
Chẳng hạn: Bao trùm, những bãi ngô, phượng vĩ.
Học sinh luyện đọc đúng câu dài
Dùng bút chì đánh dấu đoạn
Nối tiếp nhau đọc đoạn (HS yếu chỉ đọc câu)
Nhận xét bạn đọc
Luyện đọc trong nhóm mối em đọc mỗi đoạn.
Thi đọc theo hướng dẫn của giáo viên
-Một em đọc to đoạn 1. Cả lớp đọc thầm để trả lời câu hỏi
Bức tranh phong cảnh.
-Học sinh quan sát tranh và đọc thầm đoạn 1để trả lời câu hỏi.
-Xanh thẳm của gia trời, xanh biếc của cây lá, xanh non của những bãi ngô thảm cỏ. 
-Từ chỉ mức độ khác nhau của màu xanh đó là: “Sắc độ”
Học sinh đọc nghĩa của từ “Sắc độ”
1 em đọc to đoạn 2- cả lớp đọc thầm
- Sông Hương thay chiếc áo xanh thành giải lụa đào
Đọc chú giải nghĩa của từ: giải lụa đào
-Do hoa Phượng nở đỏ rực hai bên bờ sông in bóng
-Vào những đêm trằng sáng dòng sông là một đường trăng lung linh dát vàng.
 Ánh trăng vàng chiếu xuống làm cho dòng sông ánh lên một màu vàng lóng lánh.
Học sinh đọc thầm phần còn lại
 là một đặc ân
-Học sinh đọc chú giải nghĩa của từ đặc ân.
Từ gần nghĩa với từ đặn ân là: ban tặng.
 Vì Sông Hương làm cho không khí thành phố trở nên trong lành, làm tan biến những tiếng ồn ào của chợ búa..
-Một số học sinh đọc bài, nhận xét bạn đọc.
-1 em khá đọc
- Vẽ đẹp quyến rũ và sự thay đổi theo mùa của Sông Hương.
Qua tiết dạy trên tôi thấy học sinh hứng thú học, lớp học sôi nổi, đọc bài tốt, tiếp thu bài nhanh. Bằng những câu hỏi giúp học sinh hiểu nghĩa các từ mới từ chốt trong bài một cách nhẹ nhàng. Các em nắm vững nội dung bài học.
C - KẾT QUẢ:
 Qua một thời gian giảng dạy áp dụng chương trình thay sách, tôi đã có nhiều cố gắng vừa dạy thử nghiệm, vừa trao đổi kinh nghiệm cùng đồng nghiệp, tổ chuyên môn và chuyên môn trường; nghiên cứu các tài liệu tập huấn. Do đó chất lượng các tiết tập đọc ngày một tốt hơn, học sinh đọc đã đạt được như mong muốn, chất lượng được nâng cao rõ rệt so với đầu năm.
	Cụ thể qua các đợt khảo sát:
Tổng số học sinh
Tổng số HS
Kết quả khảo sát
Cuối học kì 1
Cuối học kì 2
Giỏi
Khá
TB
Yếu 
Kém
Giỏi
Khá
TB
Yếu 
Kém
SL
T
L
%
SL
TL%
SL
TL%
SL
TL%
SL
TL%
S
L
TL%
S
L
TL
%
S
L
TL%
S
L
TL%
S
L
TL%
11
1
9
2
18,1
5
45,4
1
9
2
18,1
2
18,1
5
45,4
3
27,2
1
9
0
0
 Trên đây là kết quả khảo sát chất lượng học sinh mà tôi đã áp dụng các biện pháp, phương pháp và hình thức tổ chức dạy học cho đối tượng học sinh lớp 2C vùng khó khăn, vùng dân tộc thiểu số (dân tộc Khơ-mú) và đã thu được kết quả đáng mừng, tỉ lệ học sinh trung bình trở lên đạt tỉ lệ 90,7%. Tuy nhiên về chất lượng đọc, đọc hiểu văn bản một số ít học sinh chưa cao, nhưng với chủ quan của bản thân tôi thì với chất lượng như hiện nay thì so với vùng khó khăn như điểm Xốp Kha thì cũng đạt yêu cầu như mong muốn chỉ tiêu ban đầu đề ra đầu năm học.
D - BÀI HỌC KINH NGHIỆM
 Trên cơ sở tìm hiểu nghiên cứu để tìm ra một số biện pháp nâng cao chất lượng giảng dạy tập đọc và phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh không những giúp học sinh rèn kĩ năng: Nghe - nói - đọc - viết mà còn tạo điều kiện cho học sinh học tốt các môn học khác. Muốn làm được điều này đòi hỏi người giáo viên phải luôn trau dồi kinh nghiệm để nâng cao trình độ nghiệp vụ, đáp ứng nhu cầu của người học trong thời kỳ đổi mới. Giáo viên biết lựa chọn và áp dụng linh hoạt những biện pháp phù hợp với từng bài để đạt kết quả cao trong giờ tập đọc. Thông qua nghiên cứu và thực hiện sáng kiến này đã giúp tôi rút ra được những kinh nghiệm sau: 
	1. Bất kỳ một tiết dạy Tiếng Việt nói chung cũng như tiết tập đọc nói riêng, chúng ta phải biết lựa chọn, sử dụng thay đổi các hình thức tổ chức hoạt động, các phương tiện học tập, các hình thức trình bày kết quả, nhận thức phù hợp khác nhau để tránh sự đơn điệu, nhàm chán và giúp học sinh hứng thú tích cực tham gia hoạt động học tập. 
	2. Giáo viên phải nghiên cứu kỹ các tài liệu có liên quan, đọc kỹ văn bản, cảm nhận thấu đáo nội dung trọng tâm, ý nghĩa cũng như dấu hiệu nghệ thuật. Xác định rõ các kĩ năng trọng tâm, mục tiêu cần đạt của mỗi bài học. 
	3. Không nên phụ thuộc hoàn toàn vào sách giáo viên hay sử dụng cứng nhắc hệ thống câu hỏi SGK, cũng như không máy móc thực hiện các hình thức dạy học mà sách giáo viên đưa ra. Phải tuỳ theo đối tượng học sinh, điều kiện dạy học để thiết kế các hoạt động luyện đọc thật thiết thực và phong phú.
 4. Vận dụng và phối kết hợp nhịp nhàng giữa hai ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ và tiếng Việt, vận dụng ngay học sinh biết giao tiếp tốt bằng tiếng Việt để “phiên dịch” cho giáo viên khi giáo viên gặp khó khăn trong dạy học hoặc trong giao tiếp.
5. Hướng dẫn cho học sinh thật tỉ mỉ, dễ hiểu, gần gũi với học sinh; luôn động viên kịp thời sự tiến bộ của học sinh. 
E - KIẾN NGHỊ:
1. Đối với phòng giáo dục:
 - Cần có các lớp dạy tiếng dân tộc thiểu số cho giáo viên dạy tại địa bàn trường đóng (như tiếng Khơ-mú, tiếng Mông).
 - Kết hợp với địa phương tuyển dụng nhân viên hỗ trợ điểm trường có học sinh là dân tộc thiểu số (đặc biệt là dân tộc Khơ-mú) để hỗ trợ giáo viên đứng lớp nhất là các lớp 1,2.
 2. Đối với nhà trường:
 - Cần phân công các giáo viên có kinh nghiệm giảng dạy, tâm huyết và đặc biệt biết giao tiếp bằng tiếng dân tộc thiểu số để dạy các lớp đó, nhất là lớp 1,2.
 - Cần mở các cuộc hội thảo, chuyên đề trong trường nhằm nâng cao chất lượng dạy - học cho học sinh vùng dân tộc thiểu số, đặc biệt là học sinh yếu.
 - Giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho giáo viên về chất lượng, phương pháp, hình thức dạy học theo định hướng của nhà trường phù hợp từng điểm trường.
3. Đối với giáo viên:
 - Nắm vững kiến thức cơ bản, chuyên môn nghiệp vụ; không ngừng trau dồi đạo đức, chuyên môn nghiệp vụ phục vụ tốt cho dạy học.
 - Phải có tâm huyết với nghề, luôn phục tùng và hoàn thành nhiệm vụ, trách nhiệm được giao phó.
 - Nắm vững và biết phân loại đối tượng học sinh để lựa chọn phương pháp dạy học tốt nhất để nâng cao chất lượng dạy học. 
4. Đối với học sinh, phụ huynh:
 - Chấp hành tốt các yêu cầu, quy định của nhà trường, giáo viên chủ nhiệm đề ra.	
 - Phụ huynh có trách nhiệm kết hợp cùng nhà trường, cùng giáo viên trong việc quản lí học sinh học ở nhà; mua sắm đầy đủ các loại đồ dùng học tập cho con em mình.
G. KẾT LUẬN
 Để đạt được kết quả trên trong dạy học giáo viên phải nắm vững đặc trưng của bộ môn, phải đổi mới cách dạy và cách học. Phải xác định rõ yêu cầu cần đạt trong từng tiết học, từng bước thực hiện tốt yêu cầu đề ra của bộ môn.
	Mặt khác giáo viên cần chú ý khi các em đọc đúng câu, đúng chữ rồi cần chú ý tới sắc thái, ngữ điệu khi đọc, nhất là đối với các câu đối thoại của các nhân vật câu cảm, câu hỏi...
	Vì vậy, muốn giờ tập đọc đạt kết quả tốt trước khi lên lớp giáo viên cần xác định rõ mục tiêu, phải nghiên cứu kỹ văn bản, phải nghiên cứu kỹ tác phẩm, nắm chắc thể loại, nội dung, chủ đề... chuẩn bị đồ dùng phục vụ môn học chu đáo. Có xác định đúng mới xác định được đúng yêu cầu của tiết học, phương pháp, hình thức lên lớp để vận dụng những biện pháp và hình thức tổ chức linh hoạt và sáng tạo mang lại hiệu quả giờ dạy đạt kết quả.	
*	 *
*
	Trên đây chỉ là một vài kinh nghiệm nhỏ giúp học sinh lớp 2 đọc tốt phân môn tập đọc của tôi. Vì thời gian hạn hẹp và trình độ của bản thân còn hạn chế về nhiều mặt, cho nên trong khi thực hiện và thực nghiệm sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, khiếm khuyết nên bản sáng kiến kinh nghiệm chưa thật sự mỹ mãn, đầy đủ. 
 Vậy tôi kính mong các nhà giáo dục, các nhà quản lý, chuyên môn, đồng nghiệp góp ý xây dựng để đề tài được hoàn thiện hơn, giúp tôi trong công tác giảng dạy đạt kết quả cao.
	Xin chân thành cảm ơn!
Nhận xét, đánh giá của BGH Yên Hoà, ngày 04 tháng 5 năm 2012
 Người thực hiện
 Kha Văn Thông

Tài liệu đính kèm:

  • docSANG KIEN KINH NGHIEM TAP DOC LOP 2.doc